Krishnamurti Subtitles home


NY71T3 - Quan hệ
Buổi Nói Chuyện thứ 3
New York, USA
24 tháng Tư 1971



0:33 Krishnamurti: I would like this evening if I may, to talk about several things: about relationship, what is love, and the whole human existence, involved in which is our daily living, the enormous problems one has, the conflicts, the pleasures and fears, and that most extraordinary thing one calls death. Krishnamurti: Chiều nay nếu có thể, tôi muốn, nói về vài việc: về quan hệ, yêu thương là gì, và toàn bộ đời sống con người, gồm trong đó là sống hàng ngày, vấn đề lớn lao bạn có, xung đột, thú vui và sợ hãi, và việc lạ lùng nhất bạn gọi cái chết.
1:42 As we were saying the other day, I think one has to understand this not as a theory, not as a speculative, entertaining concept, but rather as an actual fact, that one is the world and the world is us. We are the world and the world is each one of us. And to feel that, to really be committed to it and to nothing else, not only brings about a feeling of great responsibility and an action that must be not fragmentary, but as a whole. Như chúng ta nói hôm nọ, tôi nghĩ bạn phải hiểu nó không như lý thuyết, không như quan điểm giải trí, suy luận, mà đúng hơn như thực tế, rằng bạn là thế giới và thế giới là chúng ta. Chúng ta là thế giới và thế giới là mỗi chúng ta. Và thấy thế, thực sự tận tâm với nó và không gì khác, không chỉ sinh ra cảm nhận trách nhiệm bao la và hành động phải không manh mún, mà như toàn thể.
3:00 I think we are apt to forget that our society, the culture in which we live, in which we have been brought up, which has conditioned us, is the result of human endeavour, human conflict, human misery, human suffering, and the two, the culture and the individual and the community is each one of us, we are not separate from it. Now, to feel this, not as an intellectual idea or a concept, but to actually feel the reality of this, one has to go into the question of what is relationship, because our life, our existence, is based on relationship. Life is a movement in relationship. And if we do not understand what is implied in relationship, we inevitably not only isolate ourselves but create a society in which human beings are divided, not only nationally, religiously, but also in themselves, and therefore project what they are in the outer world. Tôi nghĩ chúng ta có thể quên xã hội, văn hoá trong đó chúng ta sống, chúng ta được nuôi lớn, đã qui định chúng ta, là kết quả của nổ lực con người, xung đột con người, đau đớn, khổ nhọc con người, và hai cái, văn hoá và cá nhân và cộng đồng là mỗi chúng ta, chúng ta không tách lìa nó. Giờ, để thấy thế, không phải như ý niệm tri thức hay quan niệm, mà thực sự thấy hiện thực nó, bạn phải đi sâu vấn đề quan hệ là gì, bởi sống, cuộc sống, dựa trên quan hệ. Sống là chuyển động trong quan hệ. Và nếu không hiểu cái gì hàm ẩn trong quan hệ, hiển nhiên chúng ta không chỉ cô lập mình mà tạo ra xã hội trong đó con người phân chia, không chỉ quốc gia, tôn giáo, mà cả trong chính họ, và vì vậy hiện cái họ là ra thế giới bên ngoài.
4:52 I do not know if one has gone into this question deeply for oneself, to find out if one can live with another in total harmony, in complete accord, so that there is no barrier, no division, a feeling of complete unity. Because relationship means, doesn't it, to be related. Not in action, not in some project, not in an ideology or a concept, to be totally united in the sense that the division, the fragmentation between individuals, between two human beings, doesn't exist at all at any level. Không biết bạn có đi sâu vấn đề này cho chính bạn, để tìm xem bạn có thể sống với kẻ khác trong hoà thuận hoàn toàn, trong hoà hợp hoàn toàn, để không có vật cản, không có phân chia, cảm giác hoàn toàn thống nhất. Bởi quan hệ nghĩa, phải không, liên hệ. Không trong hành động, không trong vài dự định, không trong ý hệ hay quan niệm, hoàn toàn thống nhất trong nghĩa phân chia, manh mún giữa các cá nhân, giữa hai con người, không có mặt ở mọi mức độ.
6:32 Unless one finds this relationship, it seems to me that when we try to bring about order in the world, theoretically or technologically, we are bound to create not only deep divisions between man and man but also we'll be unable to prevent corruption. Corruption begins in the lack of relationship. I think that is the root of corruption. Relationship as we know it now is the continuation of division between individuals. And that word individual, the root meaning of that word, means indivisible, a human being who is in himself not divided, not fragmented, is really an individual. But most of us are not individuals. We think we are and therefore there is the opposition of the individual against the community. But when one understands not only the meaning of that word in the dictionary sense but the deep sense of individuality in which there is no fragmentation at all, that is, perfect harmony between the mind, the heart, and the physical organism. It is only then that an individuality exists. Trừ khi bạn tìm ra quan hệ ấy với tôi dường như khi chúng ta cố tạo ra trật tự trên thế giới, về lý thuyết hay kỹ thuật, chúng ta nhất định sẽ tạo ra không chỉ phân chia sâu sắc giữa người với người mà cũng sẽ không thể ngăn cản hư hoại. Hư hoại bắt đầu trong thiếu quan hệ. Tôi nghĩ đó là gốc rễ của hư hoại. Quan hệ như chúng ta biết hiện nay là nối tiếp phân chia giữa các cá nhân. Và chữ cá nhân, nghĩa gốc của chữ ấy, là không thể phân chia, một người trong hắn không phân chia, không manh mún, thực sự là cá nhân. Nhưng đa số chúng ta không phải cá nhân. Chúng ta nghĩ mình là và vì vậy có đối nghịch của cá nhân chống lại cộng đồng. Nhưng khi bạn hiểu không chỉ nghĩa chữ ấy trong nghĩa tự điển mà ý nghĩa sâu sắc của tính cá nhân trong đó không có manh mún gì, tức là, hoà điệu hoàn hảo giữa trí óc, tâm hồn, và cơ thể vật lý. Chỉ khi ấy cá nhân có mặt.
9:11 And as our present relationship with each other - however intimate or superficial, deep or passing, if we examine it closely - is fragmented. The wife or the husband or the boy or girl lives in his own cocoon, he lives in his own ambition, personal and egotistic pursuits, envious. And all these contribute to the factor of bringing about an image in himself, and therefore his relationship with another is through that image, and therefore there is no actual relationship. Và như quan hệ nhau hiện nay - dù thân thiết hay hời hợt, sâu hay thoáng qua, nếu chúng ta xem xét kỹ - là manh mún. Vợ hay chồng hay trai hay gái sống trong cái kén riêng, hắn sống trong tham vọng riêng, theo đuổi ích kỷ riêng, ganh tị. Và thảy chúng góp phần vào tác nhân tạo ra hình ảnh trong hắn, và vì vậy quan hệ nhau là qua hình ảnh ấy, và vì vậy không có quan hệ thực.
10:38 I do not know if one is aware of this image one has, if you are actually aware of the structure and the nature of this image that one has built around oneself and in oneself. And each person is doing this all the time. And how can there be a relationship with another if there is the personal drive, envy, competition, greed, and all the rest of those things which are sustained and exaggerated in modern society. How can there be relationship with another if each one of us is pursuing his own personal achievement, his own personal success? Không biết bạn có nhận biết hình ảnh bạn có, bạn có thực nhận biết cấu trúc và bản chất của hình ảnh bạn dựng lên quanh bạn và trong bạn. Và mỗi người làm nó mọi lúc. Và làm sao có thể có quan hệ với kẻ khác nếu có thôi thúc riêng, ganh tị, đua tranh, tham lam, và mọi cái khác được duy trì và phóng đại trong xã hội hiện đại. Làm sao có thể có quan hệ với kẻ khác nếu mỗi chúng ta theo đuổi thành tựu cá nhân riêng, thành công cá nhân riêng?
12:05 I do not know if one is at all aware of all this. We are so conditioned that we accept that as the norm, as the pattern of life, that each one must pursue his own peculiar idiosyncrasy, his own peculiar tendency, and try to establish a relationship with another in spite of this. That's what we're doing, aren't we, if one examines oneself closely, isn't that what one is doing, isn't that what you're all doing? Though you may be married, you go to the office or to the factory, whatever you do during the whole of the day you pursue that, and she in her house, with her own troubles, with her own vanities, all that happens. Where is the relationship between those two human beings? Is it in bed, in sex? And is this relationship so superficial, so limited, so circumscribed, is that not in itself corruption? Không biết bạn có nhận biết mọi cái đó. Chúng ta bị qui định nên chúng ta chấp nhận nó như bình thường, như khuôn mẫu cuộc sống, rằng mỗi người phải theo đuổi tính khí kỳ cục riêng, khuynh hướng đặc thù riêng, và cố xây dựng quan hệ với kẻ khác bất chấp nó. Đó là cái chúng ta đang làm, phải không, nếu bạn xem xét bạn kỹ, đó không phải cái bạn làm, không phải việc các bạn đều làm? Tuy bạn có thể kết hôn, bạn đến văn phòng hay nhà máy, dù bạn làm gì suốt cả ngày bạn theo đuổi nó, và cô ta ở nhà, với lo lắng riêng, với hão huyền riêng, mọi cái xảy ra. Quan hệ giữa hai người ấy ở đâu? Là trên giường, tính dục? Và quan hệ ấy quá hời hợt, quá giới hạn, quá hạn chế, đó không phải hư hoại trong chính nó?
14:21 Probably you will ask how is one then to live if you do not go to the office, pursue your own particular ambition, envy, your own desire to achieve and attain, if one doesn't do all those things, what is one to do? I think that's a wrong question altogether, don't you? Because we are concerned, aren't we, in bringing about a radical change in the whole structure of the mind. Because the crisis is not in the outer world but the crisis is in consciousness itself. And until we understand this crisis, not superficially, not according to some philosopher, some teacher, but actually understand it for ourselves deeply by looking into it, examining it, we shall not be able to bring about a change. And we are concerned with psychological revolution. The revolution can only take place when there is the right kind of relationship between human beings. Có thể bạn sẽ hỏi rồi làm sao sống nếu không đến văn phòng, theo đuổi tham vọng, ganh tị riêng, khao khát riêng để thành tựu và đạt được, nếu không làm mọi cái đó, bạn phải làm gì? Tôi nghĩ đó là câu hỏi sai hoàn toàn, phải không? Bởi chúng ta quan tâm, phải không, tạo ra thay đổi tận gốc trong toàn bộ cơ cấu trí óc. Bởi khủng hoảng không ở thế giới bên ngoài mà khủng hoảng trong chính nhận thức. Và đến khi chúng ta hiểu khủng hoảng ấy không hời hợt, không theo vài triết gia, vài vị thầy, mà thực hiểu nó sâu sắc cho chính mình bởi nhìn nó, xem xét nó, chúng ta sẽ không thể tạo ra thay đổi. Và chúng ta quan tâm đến cách mạng nội tâm. Cách mạng ấy chỉ có thể xảy ra khi có loại quan hệ đúng giữa con người.
16:23 How is such a relationship to be brought about? First, the problem is clear, isn't it? If I'm married I have a responsibility, children, etc. I go to the office or to some work and spend my whole day there. Please, share this problem with me, will you? It's your problem, not my problem. It's your life, not my life. It's your sorrow, your trouble, your anxiety, your guilt, the great weight of sorrow, that's one's life, it is that, this battle. If you listen merely to a description, then you'll find that you're merely swimming on the surface and not resolving any problem at all. So as it is actually your problem, and the speaker is merely describing the problem, knowing that the description is not the described, and to share this problem together. Which is, how can human beings, you and I, find in all this turmoil, mess, hatred, war, destruction, pollution, these terrible things that are going on in the world, how can we find right relationship? Làm sao quan hệ như thế được sinh ra? Trước hết, vấn đề rõ, phải không? Nếu kết hôn tôi có trách nhiệm, con cái, v.v.. tôi đến văn phòng hay làm việc gì và mất cả ngày ở đó. Nào, chia sẻ vấn đề với tôi, được không? Nó là vấn đề bạn, không của tôi. Nó là đời bạn, không của tôi. Nó là đau khổ, phiền toái bạn, lo âu, tội lỗi bạn, gánh nặng lớn của đau khổ, đó là đời bạn, là nó, chiến đấu. Nếu bạn chỉ nghe mô tả, thì bạn sẽ thấy bạn chỉ bơi trên bề mặt và không giải quyết vấn đề gì. Vậy như nó là thực sự vấn đề bạn, và người nói chỉ mô tả vấn đề, biết rằng mô tả không phải vật mô tả, và cùng chia sẻ vấn đề. Tức là, làm sao con người, bạn và tôi, có thể, tìm trong cả hỗn độn này, rối ren, thù hận, chiến tranh, phá hoại, ô nhiễm, mấy việc khủng khiếp ấy xảy ra trên thế gian, làm sao chúng ta có thể tìm ra quan hệ đúng?
19:14 To find that out, it seems to me, one must examine actually what is taking place, see what actually is, not what we'd like to think it should be, or try to change our relationship to a future concept, but actually observe what it is now. And in observing what it is now, the fact, the truth, the actuality of it, then there is a possibility of changing that. As we said the other day, again, when there is a possibility then there is great energy. What dissipates energy is the idea that it is not possible to change. Để tìm ra nó, dường như, bạn phải xem xét thực sự việc xảy ra, nhìn cái đang là, không phải cái chúng ta thích nghĩ nó sẽ là, hay cố thay đổi quan hệ theo quan niệm tương lai, mà thực sự quan sát cái hiện là. Và khi quan sát cái hiện là, thực tế, sự thật, thực tại nó, thì có khả năng thay đổi nó. Như chúng ta nói hôm nọ, khi có khả năng thì có năng lực lớn. Việc hao phí năng lực là ý niệm rằng không thể thay đổi.
20:29 So we must look at our relationship as it is now, actual, every day. And in observing what it is then we shall discover how to bring about a change in that actuality. So we are describing what actually is, which is, each one lives in his own world, in his world of ambition, greed, fear, the desire to succeed, etc., you know what is going on. We meet each other, husband and wife, or a boy and a girl, in bed. And that's what we call love, leading separate lives, isolated, build a wall of resistance around ourselves, self-centred activity, each one is seeking security psychologically, each one depending on the other for comfort, for pleasure, for companionship, because each one is so deeply lonely, each one demanding to be loved, to be cherished, each one trying to dominate the other. Vậy chúng ta phải nhìn quan hệ như nó hiện là, thực tế, mỗi ngày. Và khi quan sát cái hiện là thì chúng ta sẽ khám phá làm sao tạo ra thay đổi trong thực tại ấy. Vậy chúng ta đang mô tả cái đang là, tức là, mỗi người sống trong thế giới riêng, trong thế giới tham vọng, tham lam, sợ hãi, khao khát thành công, v.v.. bạn biết việc xảy ra. Chúng ta gặp nhau, chồng và vợ, hay trai và gái, trên giường. Và đó là cái chúng ta gọi yêu thương, dẫn đến sống phân chia, cô lập, xây tường chống đối quanh mình, hoạt động vị kỷ, mỗi người tìm an toàn tâm lý, mỗi người lệ thuộc kẻ khác vì dễ chịu, vì thú vui, vì bầu bạn, bởi mỗi người quá cô đơn sâu thẳm, mỗi người đòi được yêu thương, được nâng niu, mỗi người cố thống trị kẻ khác.
23:01 Seeing this - which is fairly observable, you can see it for yourself if you observe yourself - is there any kind of relationship at all? And because there is no relationship between two human beings, though they may have children, house, etc., actually they're not related. If they have a common project together, that project sustains them, holds them together, but that's not relationship. Thấy thế - nó gần như quan sát được, có thể thấy nó cho bạn nếu bạn quan sát bạn - có loại quan hệ nào không? Và bởi không có quan hệ giữa hai con người, dù họ có thể có con cái, nhà cửa, v.v.. thực sự họ không liên hệ. Nếu họ có cùng kế hoạch chung, kế hoạch ấy duy trì, giữ họ lại nhau, nhưng đó không phải quan hệ.
24:02 Seeing all this, and seeing that if there is no relationship between two human beings then corruption begins, not in the outward structure of society, the pollution in the outer phenomenon, but pollution, corruption, destruction begins when human beings have actually no relationship at all, as you haven't. You may hold the hand of another, kiss each other, sleep together, but actually when you observe very closely, is there any relationship at all? Which means to be related, not dependent on each other, not escape from your loneliness through another, not try to find comfort, companionship, through another. When you do seek comfort, dependence through another, can there be any kind of relationship, or you are using each other. We are not being cynical but actually observing what is, and that's not cynicism. So, to find out what is relationship, what it is to actually be related to another, one must understand this question of loneliness. Because most of us are terribly lonely. The older we grow the more lonely we become, especially in this country. Have you noticed the old people, what they're like? Have you noticed their escapes, their amusement? They've worked all their life and they want to escape into some kind of entertainment. Nhìn hết nó, và thấy nếu không có quan hệ giữa hai con người thì hư hoại bắt đầu không phải cơ cấu xã hội bên ngoài, ô nhiễm hiện tượng bên ngoài, mà ô nhiễm, hư hoại, phá hoại bắt đầu khi con người thực sự không có quan hệ gì, như bạn không có. Bạn có thể nắm tay kẻ khác, hôn nhau, ngủ cùng nhau, nhưng thực sự khi bạn quan sát thật kỹ, có quan hệ gì không? Nghĩa là liên hệ, không lệ thuộc nhau, không chạy trốn cô đơn qua kẻ khác, không cố tìm dễ chịu, bầu bạn, qua kẻ khác. Khi bạn tìm dễ chịu, lệ thuộc qua kẻ khác, có thể có loại quan hệ nào, hay bạn sử dụng nhau. Chúng ta không yếm thế mà thực quan sát đang là, và đó không phải tính yếm thế. Vậy, để tìm ra quan hệ là gì, liên hệ thực sự với kẻ khác là gì, bạn phải hiểu vấn đề cô đơn. Bởi hầu hết chúng ta quá sức cô đơn. Lớn lên già đi cô đơn càng nhiều, đặc biệt ở xứ này. Bạn có để ý người già, họ như thế nào? Bạn có để ý chạy trốn, tiêu khiển của họ? Họ làm việc cả đời và họ muốn trốn vào vài loại giải trí.
27:17 And to see and to find out a way of living in which we don't use another, psychologically, emotionally, not depend on another, not use another as a means of escape from your own tortures, from your own despairs, from your own loneliness. Và để thấy và tìm ra lối sống chúng ta không dùng kẻ khác, về tâm lý, cảm xúc, không lệ thuộc kẻ khác, không dùng kẻ khác như cách trốn đau đớn riêng, tuyệt vọng riêng, cô đơn riêng.
28:03 To understand it, that is, to understand what it means to be lonely. Have you ever been lonely? Do you know what it means? That you have no relationship with another, completely isolated. You may be with your family, in a crowd or in the office, wherever you are, this thing suddenly comes upon you, complete sense of utter loneliness with its despair. And until you solve that completely, your relationship becomes a means of escape and therefore it leads to corruption, leads to misery. So, how to understand this loneliness, this sense of complete isolation? To understand it one has to look at our own life. Isn't every action that you're doing a self-centred activity? You may occasionally be charitable, occasionally generous, do something without any motive, those are rare occasions. But actually, the despair can never be dissolved through escape but by observing it. Hiểu nó, tức là, hiểu cô đơn là gì. Bạn có từng cô đơn? Bạn có biết nó nghĩa gì? Rằng bạn không có quan hệ với kẻ khác, hoàn toàn cô lập. Bạn có thể ở với gia đình, trong đám đông hay văn phòng, bất kỳ đâu, việc ấy thình lình xâm chiếm bạn, cảm giác hoàn toàn cô đơn với tuyệt vọng. Và đến khi bạn giải quyết nó hoàn toàn, quan hệ thành phương tiện chạy trốn và vì vậy nó dẫn đến hư hoại, dẫn đến khổ đau. Vậy, làm sao hiểu cô đơn ấy, cảm giác hoàn toàn cô độc ấy? Để hiểu nó bạn phải nhìn cuộc sống riêng. Mỗi hành động bạn làm không phải hoạt động vị kỷ? Bạn có thể đôi khi rộng lượng, đôi khi khoan dung, làm gì đó không nguyên do, đó là trường hợp hiếm. Nhưng thực sự, tuyệt vọng không thể tan mất qua chạy trốn mà bởi quan sát nó.
30:17 So we'll come back to this question, which is how to observe, how to observe ourselves so that in that observation there is no conflict at all. Because conflict is corruption, conflict is a waste of energy, conflict is the battle of our life, from the moment we are born until we die. And is it possible to live without a single moment of conflict? And to do that, to find out for ourselves, one has to learn how to observe, how to observe our whole movement. We went into that the other day, there is observation which becomes harmonious, which is true, when the observer is not, but only observation. We went into that so I won't go into it again because it would be rather a waste of time, because there are so many things to talk about. Vậy sẽ trở lại vấn đề, là làm sao quan sát, làm sao quan sát chính mình để trong quan sát ấy không có xung đột gì. Bởi xung đột là hư hoại, xung đột là phí năng lực, xung đột là đánh nhau của đời sống, từ lúc sinh ra đến khi chết đi. Và có thể nào sống mà không một giây xung đột? Và để làm thế, để tìm ra cho mình bạn phải học làm sao quan sát, làm sao quan sát toàn bộ chuyển động mình. Chúng ta đã đi sâu hôm nọ, có quan sát nó thành hoà điệu, là thực, khi người quan sát không có, mà chỉ quan sát. Chúng ta đã đi sâu nên sẽ không trở lại bởi nó khá mất thì giờ, bởi có quá nhiều việc để nói.
31:51 When there is no relationship can there be love? We talk about it. And love, as we know it, is related to sex and pleasure, isn't it? No? Some of you say no. Then when you say no, then you must be without ambition, then there must be no competition, then there must be no division as you and me, we and they, there must be no division of nationality, no division in belief, or the division brought about by belief, division brought about by knowledge, then only, and more, you can say you love. But for most people love is related to sex and pleasure, and all the travail that comes with it, jealousy, envy, antagonisms, you know what happens between man and woman. When that relationship is not true, real, deep, completely harmonious, then how can you have in the world peace? How can there be then an end to war? Khi không có quan hệ có thể có yêu thương? Chúng ta nói về nó. Và yêu thương, như chúng ta biết, liên quan đến tính dục và thú vui, phải không? Không à? Vài bạn nói không. Rồi khi bạn nói không, thì bạn phải không tham vọng, thì phải không đua tranh, thì phải không phân chia như bạn và tôi, chúng ta và họ, phải không có phân chia quốc tịch, không phân chia niềm tin, hay phân chia sinh ra bởi niềm tin, phân chia sinh ra bởi kiến thức, chỉ vậy, và thêm nữa, bạn có thể nói bạn yêu. Nhưng với đa số người yêu thương liên quan với tính dục và thú vui, và mọi khổ nhọc đến với nó, ganh tị, đố kỵ, đối lập, bạn biết việc xảy ra giữa nam và nữ. Khi quan hệ ấy không thực, đúng, sâu, hoàn toàn hoà hợp, rồi làm sao bạn có thể có hoà bình trên thế gian? Rồi làm sao có thể dứt chiến tranh?
34:27 So relationship is one of the most, or rather the most important thing in life. That means to understand what love is. Surely one comes upon it, strangely, without asking for it, when you find out for yourself what it is not, what love is not, then you know what love is, not theoretically, not intellectually or verbally, but when you realise actually what it is not. Which is, a mind that is competitive, ambitious, a mind that is striving, comparing, imitating, such a mind cannot possibly love. Vậy quan hệ là một việc, hay đúng hơn là việc quan trọng nhất trong đời. Đó nghĩa thấu hiểu yêu thương là gì. Chắc rằng bạn chợt hiểu nó, lạ lùng, không hỏi han, khi bạn tìm ra cho bạn cái không phải nó, cái không phải yêu thương, rồi bạn hiểu yêu thương là gì, không lý thuyết, không trí óc hay bằng lời, mà khi bạn thực nhận ra cái không phải nó. Nó là, trí óc tranh đua, tham vọng, trí óc nổ lực, so sánh, bắt chước, trí óc như thế không thể yêu thương.
35:52 So can you, living in this world, live completely without ambition, completely never comparing yourself with another, because the moment you compare, then there is conflict, then there is envy, then there is ambition, then there is the desire to achieve, to go beyond the other. Do listen to all this, it's your life we are talking about. Vậy bạn có thể nào, sống trên thế gian, sống hoàn toàn không tham vọng, hoàn toàn không hề so sánh bạn với ai khác, bởi giây phút bạn so sánh, liền có xung đột, liền có ganh tị, liền có tham vọng, liền có khao khát thành tựu, vượt qua kẻ khác. Hãy nghe mọi việc này, là đời bạn chúng ta nói đến.
36:42 Can a mind and a heart, that is, that remembers the hurts, the insults, the things that have made it sensitive, dull, can such a mind and a heart know what love is? Có thể tâm hồn và trí óc, tức là, nó nhớ lại tổn thương, mắng mỏ, cái làm nó nhạy cảm, đần độn, tâm hồn và trí óc như thế có thể yêu thương?
37:17 Is love pleasure? And yet that is what we are pursuing, consciously or unconsciously. Our gods are the result of our pleasure, our beliefs, our social structure, the morality of society, which is essentially immoral, is the result of our pursuit for pleasure. And when you say, I love somebody, is it love? That means no separation, no domination, no self-centred activity. And to find out what it is, one must deny all this, deny in the sense, see the falseness of it. When you see something false which you have accepted as true, as natural, as human, once you see that, then one can never go back to it. When you see a dangerous snake or a dangerous animal, never play with it anymore, never come near it. Similarly, when you see that love is none of these things, actually see it, feel it, observe it, chew it, live with it, be committed to it totally, then you know what love is, then you will know what compassion is, which means passion for everyone. And we have no passion, we have lust, we have pleasure. Yêu thương là thú vui? Và tuy vậy đó là cái chúng ta theo đuổi, hữu thức hay vô thức. Thần thánh là kết quả của thú vui, niềm tin, cơ cấu xã hội, đạo đức xã hội, cơ bản là vô đạo đức, là kết quả của theo đuổi thú vui. Và khi bạn nói, tôi yêu một ai, nó là yêu thương? Đó nghĩa không tách lìa, không thống trị, không hoạt động vị kỷ. Và để tìm ra nó là gì, bạn phải từ bỏ hết, từ bỏ trong nghĩa, thấy cái sai nó. Khi bạn thấy gì sai mà bạn đã chấp nhận như đúng, như tự nhiên, như con người, một khi thấy thế, thì bạn không hề quay lại nó. Khi bạn thấy rắn nguy hiểm hay thú nguy hiểm, không hề đùa với nó nữa, không hề đến gần nó. Tương tự, khi bạn thấy yêu thương không phải mấy việc này, thực sự thấy, cảm nhận nó, quan sát, nghiền ngẫm nó, sống với nó, hoàn toàn tận tâm với nó, thì bạn biết yêu là gì, rồi bạn sẽ biết tình thương là gì, nó nghĩa nhiệt tâm với mọi người. Và chúng ta không có nhiệt tâm, chúng ta có thèm khát, chúng ta có thú vui.
40:07 And the word passion comes from the root of sorrow. We have all had sorrow of some kind or another, losing somebody, the sorrow of self pity, the sorrow of the human race, both collective and personal, - we know what sorrow is - the death of someone whom you consider that you have loved. And when we remain with that sorrow totally, without any escape, without trying to rationalise it, without trying to escape from it through any form, through words or through action, when you totally remain with it, completely, without any movement of thought, then you will find out of that sorrow, comes passion. Then that passion has the quality of love, because love has no sorrow. Và chữ nhiệt tâm đến từ gốc của đau khổ. Chúng ta đều có đau khổ loại này hay loại khác, mất ai đó, khổ của tự xót thương, khổ của nhân loại, cả tập thể và cá nhân, - chúng ta biết khổ là gì - cái chết của ai bạn xem như bạn yêu thương. Và khi chúng ta ở đó với nổi khổ hoàn toàn, không chạy trốn, không cố lý giải nó, không cố chạy trốn nó qua hình thức nào, qua lời nói hay hành động, khi bạn ở với nó hoàn toàn, trọn vẹn, không chuyển động suy nghĩ nào, thì bạn sẽ thấy từ khổ ấy, nhiệt tâm đến. Rồi nhiệt tâm là đặc tính của yêu thương, bởi yêu thương không có khổ.
42:03 When one understands this whole question of existence, the conflicts, the battles, the life that one leads, so empty, so meaningless, and the intellectuals try to give a meaning to life, a significance to life. And we also want to find significance to life, because life has no meaning as it is lived, has it? The constant struggle, the endless work, the misery, the suffering, the travail that one goes through in life, all that has no meaning actually, we go through it as a habit. But to find out what the significance of this existence is, one must also understand the significance of death, because living and dying are together, they're not two separate things. Khi bạn hiểu toàn bộ vấn đề đời sống, xung đột, đấu tranh, cuộc sống mà bạn lê lết, quá rỗng tuếch, quá vô nghĩa, và mấy trí thức cố cho một ý vào đời, một nghĩa vào cuộc sống. Và chúng ta cũng muốn tìm ý nghĩa cho cuộc sống, bởi đời sống vô nghĩa như nó được sống, phải không? Tranh đấu không ngừng, làm việc không ngớt, khổ sở, đau đớn, khổ nhọc bạn trải qua trong đời, mọi cái thực vô nghĩa, chúng ta trải qua nó như thói quen. Nhưng để tìm ra ý nghĩa cuộc sống là gì, bạn cũng phải hiểu ý nghĩa cái chết, bởi sống và chết là cùng nhau, chúng không phải hai thứ tách biệt.
43:52 So one must enquire what it means to die, because that's part of our living, not something in the distant future to be avoided, only to be faced when one is desperately ill, in old age or an accident, or die on a battlefield. So it is part of our life, our daily life, as it is part of our daily life to live without a single breath of conflict, it's part of our life to find out what it means to love. That is also a part of our existence, the whole field of our existence is not merely to end in death. So one must understand it. Vậy bạn phải tìm kiếm chết nghĩa gì, bởi đó là một phần cuộc sống, không phải gì ở tương lai xa để ngăn tránh, chỉ đối mặt khi bạn bịnh nặng, tuổi già hay tai nạn, hay chết trên chiến trường. Vậy nó là một phần sống, sống hàng ngày, như một phần của sống hàng ngày để sống mà không hơi thở nào xung đột, là một phần sống để tìm ra ý nghĩa yêu thương. Đó cũng là một phần sống, toàn bộ lĩnh vực sống không chỉ chấm dứt khi chết. Vậy bạn phải hiểu nó.
45:33 How do we understand what death is? Can you understand it when you are dying, at the last moment, unconscious? Probably the way you have lived, the strains, the emotional struggles, the ambitions, the drive, all that makes one at the last moment incapable of clear perception. Then there is old age and the fear of old age, the deterioration of the mind, and all the rest of it. So, one has to understand what death is now, not tomorrow. If you observe, thought doesn't want to think about it. It'll think about all the things it will do tomorrow, building the bridges, how to invent new things, better bathrooms, and all the rest thought can think about, but it doesn't want to think about death, because it doesn't know what it means. And the meaning of death, is that to be found through the process of thought? Are we sharing together all this? Please do share it. When we share it then we will begin to see the beauty of all this. But if you sit there and let the speaker go on, merely listening to his words, then we don't share together. Sharing together implies a certain quality of care, attention, affection, love. And death is a tremendous problem. And the young people may say, why do you bother about it? Because it's part of their life, it is part of their life to understand celibacy, not just, why do you talk about celibacy? That's for the old fogeys, that's for the stupid monks. But that also has been a problem for human beings, not invented by the priests, or very recent Catholics, it has been a problem for five thousand years, what it means to be celibate. Làm sao chúng ta hiểu chết là gì? Bạn có thể hiểu nó khi bạn chết, ở giây phút cuối, vô thức? Có lẽ lối bạn sống, căng thẳng, đấu tranh cảm xúc, tham vọng, thôi thúc, mọi cái làm bạn ở phút cuối không thể nhận thức rõ. Rồi có tuổi già và sợ tuổi già, thoái hoá trí óc, và mọi cái khác. Vậy, phải hiểu chết là gì bây giờ, không phải ngày mai. Nếu bạn quan sát, suy nghĩ không muốn nghĩ về nó. Nó sẽ nghĩ mọi việc sẽ làm ngày mai, xây cầu, làm sao chế tạo vật mới, phòng tắm tốt hơn, và mọi cái khác suy nghĩ có thể nghĩ tới, nhưng nó không muốn nghĩ về cái chết, bởi không biết nó nghĩa gì. Và ý nghĩa cái chết, là cái được tìm ra qua tiến trình suy nghĩ? Chúng ta có chia sẻ mọi việc này? Hãy chia sẻ nó. Khi chúng ta chia sẻ thì sẽ bắt đầu thấy vẻ đẹp của mọi việc này. Nhưng nếu bạn ngồi đó và để người nói tiếp tục, chỉ nghe lời nói thì chúng ta không cùng chia sẻ. Cùng chia sẻ hàm ý tính chất nào về quan tâm, chú tâm, yêu mến, yêu thương. Và cái chết là vấn đề to lớn. Và người trẻ có thể nói, tại sao bạn bận tâm về nó? Bởi nó là một phần đời họ, là một phần đời họ để hiểu sống độc thân, không chỉ, tại sao bạn nói về sống độc thân? Đó dành cho già cổ hủ, đó dành cho sư sãi ngu ngốc. Nhưng đó cũng là vấn đề cho con người, không phải do thầy tu đặt ra, hay Công giáo gần đây, nó là vấn đề đã năm ngàn năm, sống độc thân nghĩa gì.
49:42 And also, that's part of life, can the mind be completely chaste? And not being able to find out how to live a chaste life, one takes vows of celibacy and goes through the tortures, the biological tortures. That is not celibacy. Celibacy is something entirely different. It is to have a mind that is free from all image, from all knowledge, which means understanding the whole process of pleasure and fear, which we went into the other day. Và cũng, đó là một phần đời sống, trí óc có thể hoàn toàn trinh bạch? Và không thể tìm ra làm sao sống một đời trinh bạch, bạn thề nguyền độc thân và trải qua thống khổ, thống khổ sinh học. Đó không phải độc thân. Độc thân là gì đó hoàn toàn khác. Là có một trí óc lìa mọi hình ảnh, lìa mọi kiến thức, tức là thấu hiểu toàn bộ tiến trình của thú vui và sợ hãi, chúng ta đã đi sâu hôm nọ.
50:51 So similarly, one has to understand this thing called death. How do you proceed to understand something of which you are terribly frightened? Aren't most of us frightened of death? Or say, Thank God I'm going to die, I've had enough of this life with all the misery of it, the confusion, the shoddiness of it, the petty wrangles, the butchery, the brutality, the violence, all the mechanical things in which one is caught, thank God all this will end. That's not an answer. Or to rationalise death or to believe in some incarnation, as the whole Asiatic world does - reincarnation. To go into that, to find out what reincarnation means, which is to incarnate next life, to be born next life, you, to be born in a future existence. And to find out that, you must find out what you are now. What are you now, if you believe in reincarnation, what are you now? Lot of words, lot of experiences, knowledge, conditioned by various cultures, all the identifications of your life, your furniture, your house, your bank account, your experience of pleasure and pain, that's what you are, aren't you, remembrance of things, the failures, the hopes, the despairs, all that you are now. And that is going to be born next life. Lovely idea, isn't it? Vậy tương tự, bạn phải hiểu cái được gọi là chết. Làm sao bạn tiến hành hiểu điều gì mà bạn quá sợ? Không phải đa số chúng ta sợ chết? Hay nói, Ơn Chúa, tôi sẽ chết, tôi đã có đủ trên đời với mọi khổ đau, rối loạn, giả tạo, cãi cọ vô lối, giết chóc, tàn ác, bạo lực, mọi thứ máy móc bạn bị kẹt vào, ơn Chúa mọi việc sẽ chấm dứt. Đó không phải trả lời. Hay lý giải cái chết hay tin vào tái sinh, như cả thế giới châu Á tin - tái sinh. Đi sâu nó, tìm ra tái sinh nghĩa gì, là sinh ra ở đời sống kế, được sinh ra đời sống kế, bạn, được sinh ở cuộc sống tương lai. Và để tìm ra nó, bạn phải tìm ra bạn hiện là gì. Bạn đang là gì, nếu tin vào tái sinh, bạn đang là gì? Hàng lô chữ nghĩa, kinh nghiệm, kiến thức, bị qui định bởi nhiều loại văn hoá, mọi đồng hoá của cuộc đời, nội thất, nhà cửa, tài khoản ngân hàng, kinh nghiệm về thú vui và đau đớn, đó là cái bạn là, phải không, nhớ lại việc, thất bại, hy vọng, tuyệt vọng, mọi cái đó bạn hiện là. Và đó sẽ được sinh ra đời sống kế. Ý niệm đáng yêu, phải không?
53:51 Or you think there is a permanent soul, a permanent entity in you. Is there anything permanent in you? The moment you say there is a permanent soul, permanent entity, that entity is the result of your thinking, or the result of your hope, because there is so much insecurity, everything is transient, in a flux, in a movement. So when you say there is something permanent, that permanency is the result of your thinking. And thought is of the past. Thought is never free, it can invent anything it likes. Hay bạn nghĩ có linh hồn bất tử, thực thể bất tử trong bạn. Có gì trường tồn trong bạn? Giây phút bạn nói có linh hồn bất tử, thực thể bất tử, thực thể ấy là kết quả của suy nghĩ, hay kết quả của hy vọng, bởi có quá nhiều bất an, mọi việc là tạm thời, trôi chảy, chuyển động. Vậy khi bạn nói có gì đó trường cữu, trường cữu ấy là kết quả của suy nghĩ. Và suy nghĩ là quá khứ. Suy nghĩ không hề tự do, nó có thể đặt ra gì nó thích.
54:59 So, if you believe in the future birth, then you must know that the future is conditioned by the way you live now, what you do now, what you think, what your acts are, the way of your ethics. So what you are now, what you do now, matters tremendously. But those people who believe in the future birth don't give a pin what happens now, just a matter of belief. Vậy, nếu bạn tin vào sinh ra ở tương lai, thì bạn phải biết tương lai bị qui định bởi lối bạn sống bây giờ, cái bạn làm bây giờ, cái bạn nghĩ, cái bạn hành động, lối bạn đạo đức. Vậy cái bạn hiện là, cái bạn đang làm, cực kỳ quan trọng. Nhưng những kẻ tin vào sinh ra ở tương lai không quan tâm gì cái đang xảy ra, chỉ quan tâm niềm tin.
55:59 How do you find out what death means? Living with vitality, with energy, healthy, not when you're insane or unbalanced or ill, not at the last moment - now. How do you find out, knowing the organism will inevitably wear out? Like all machinery it must wear out, but unfortunately our machinery we use so disrespectfully, don't we? So, how do you find out what it means to die, knowing the physical organism comes to an end? Have you ever thought about this? Thought - you can't think about it - have you ever experimented with this, to find out what it means to die psychologically, inwardly. Not how to find immortality, because eternity, that which is timeless is now, not in some distant future. And to enquire into that one must understand the whole problem of time, not only the chronological time by the watch but the time that thought has invented as a gradual process of change. Làm sao bạn tìm ra chết nghĩa gì? Sống với sức sống, với năng lực, khoẻ mạnh, không phải khi mất trí hay mất cân bằng hay bịnh, không phải ở phút cuối - bây giờ. Làm sao bạn tìm ra, biết rằng cơ thể dĩ nhiên sẽ hỏng? Như mọi máy móc nó phải hỏng, nhưng tiếc thay máy chúng ta dùng thật không tôn trọng, phải không? Vậy, làm sao bạn tìm ra chết nghĩa gì, biết rằng cơ thể vật lý sẽ chấm dứt? Bạn có từng nghĩ về nó? Suy nghĩ - bạn không thể suy nghĩ về nó - bạn có từng thử nghiệm với nó, tìm ra chết tâm lý, bên trong là nghĩa gì. Không phải tìm bất tử, bởi vĩnh cửu, cái phi thời là bây giờ, không ở tương lai xa. Và để tìm kiếm nó bạn phải hiểu toàn bộ vấn đề thời gian, không chỉ thời gian niên đại của đồng hồ mà thời gian suy nghĩ đặt ra như tiến trình thay đổi dần dần.
58:31 So how does one find this strange thing that we'll all have to meet one day or another, how do you find out? Can one die psychologically today, die to everything that you have known? Take, for instance, one thing, to die to your pleasure, die to your attachment, your dependence, end it without arguing, without rationalising, without trying to find ways and means of avoiding it. You've understood my question? Not quite? You know what it means to die, not physically but psychologically, inwardly? Which means, to put an end to that which has continuity. You understand this? To put an end to your ambition, because that's what's going to happen when you die, won't it? You can't carry it over and sit next to God. When you die actually, you have to end so many things, without any argument. You can't say to death, hold on a minute, let me finish my job, let me finish my book, the things which I have not done, let me heal the hurts which I have given to others, you have no time. Vậy làm sao bạn tìm vật lạ lùng này mà chúng ta sẽ phải gặp hôm nay hay hôm khác, làm sao bạn tìm ra? Bạn có thể chết tâm lý hôm nay, chết với mọi thứ bạn biết? Lấy ví dụ, một việc, chết đi thú vui, chết đi bám víu, lệ thuộc, chấm dứt nó mà không tranh cãi, không lý giải, không cố tìm lối và cách trốn tránh nó. Bạn hiểu câu hỏi? Không hoàn toàn? Bạn biết chết nghĩa gì, không phải vật lý mà tâm lý, bên trong? Nghĩa là, chấm dứt cái có tiếp nối. Hiểu không? Chấm dứt tham vọng, bởi nó sẽ xảy ra khi bạn chết, phải không? Bạn không thể mang theo và ngồi gần Thượng đế. Khi bạn chết thực sự, bạn phải chấm dứt rất nhiều việc, mà không tranh cãi gì. Không thể nói với cái chết, cho một phút, để tôi xong việc, để tôi xong quyển sách, những thứ tôi chưa xong, để tôi chữa tổn thương tôi đã làm cho kẻ khác, bạn không có thì giờ.
1:01:19 So to find out, to live a life now, today, in which there is always an ending, an ending to everything that you began, not your office, of course. But inwardly, to end all the knowledge that you have gathered, knowledge being your experience, your memories, your hurts, the pain, the comparative way of living, comparing ourselves always with somebody else. To end all that, every day, so that your mind the next day is fresh and young, and such a mind can never be hurt. That is innocency. Vậy tìm ra, sống một đời bây giờ, hôm nay, trong đó luôn có chấm dứt, chấm dứt mọi việc bạn đã bắt đầu, không ở văn phòng, dĩ nhiên. Nhưng bên trong, chấm dứt mọi kiến thức bạn thu gom, kiến thức là kinh nghiệm, ký ức, tổn thương, đau đớn, lối sống so sánh, luôn so sánh mình với ai khác. Chấm dứt mọi thứ, mỗi ngày, để trí óc ngày kế tươi mới và trẻ trung, và trí óc như thế không hề bị tổn thương. Đó là ngây thơ.
1:02:42 So one has to find out for oneself what it means to die, and therefore no fear, therefore every day is a new day, and I really mean this. One can do this, so that your mind and your eyes see life as something totally new. And that is eternity, that is the quality of a mind that has come upon this timeless state, because it has known what it means to die every day to everything that it has collected during the day. Then in that there is love, surely. Love is something totally new every day. But pleasure is not, pleasure has a continuity. Love is always new and therefore it is its own eternity. Vậy bạn phải tìm ra cho bạn chết nghĩa gì, và vì vậy không sợ, vì vậy mỗi ngày là ngày mới, và tôi thực sự nói thế. Bạn có thể làm nó, để trí óc và mắt nhìn đời sống như gì đó hoàn toàn mới. Và đó là vĩnh cửu, đó là tính chất trí óc chợt nhận ra trạng thái phi thời gian, bởi nó biết gì là chết mỗi ngày với mọi việc nó đã tích góp cả ngày. Rồi chắc chắn, trong đó có yêu thương. Yêu thương là gì đó hoàn toàn mới mỗi ngày. Nhưng thú vui thì không, thú vui có tiếp nối. Yêu thương luôn mới và vì vậy nó là vĩnh cửu riêng nó.
1:04:24 Do you want to ask any questions? Bạn có muốn hỏi gì?
1:04:31 Questioner: Supposing through complete objective self-observation I find that I am greedy, sensual, selfish and all that, then how can I know whether this kind of living is good or bad unless I already have some preconceptions of the good? And if I have those preconceptions, they can be derived from self-observation. Người hỏi: Giả sử qua tự quan sát hoàn toàn khách quan tôi thấy tôi tham, nhục dục, ích kỷ và mọi thứ, rồi làm sao tôi có thể biết lối sống ấy là tốt hay xấu trừ khi tôi đã có vài ý tưởng trước về tốt? và nếu tôi có mấy ý tưởng trước ấy, chúng có thể rút ra từ tự quan sát.
1:05:06 K: Quite right. K: Đúng thôi.
1:05:07 Q: Then I also find another difficulty, you seem to believe in sharing, but at the same time you say that two lovers or a husband and wife should not base their love on comfort, comforting each other. I don't see anything wrong in comforting each other, that is sharing. Q: Rồi tôi cũng thấy khó khăn khác, hình như ngài tin vào chia sẻ, nhưng đồng thời ngài nói hai kẻ yêu nhau hay chồng và vợ không nên dựa tình yêu trên dễ chịu, thoải mái nhau. Tôi không thấy gì sai trong dễ chịu nhau, đó là chia sẻ.
1:05:30 K: Right. The gentleman asks, one must have a concept of the good, otherwise why should one give up all this ambition, greed and envy, etc. That's part of the first question. You must have a concept of what is good, a formula of what is good. You can have a formula or a concept of what is better, but can you have a concept of what is good? K: Đúng. Quí ngài hỏi, bạn phải có quan niệm về tốt, ngược lại tại sao bạn phải bỏ mọi tham vọng, tham và ganh tị, v.v.. Đó là một phần câu hỏi đầu. Bạn phải có quan niệm về tốt là gì, công thức về tốt là gì. Bạn có thể có công thức hay quan niệm về cái tốt hơn, nhưng bạn có thể có quan niệm về tốt là gì?
1:06:36 Q: Yes, I think so. Q: Vâng, tôi nghĩ vậy.
1:06:39 K: The gentleman says he thinks so. Can thought produce what is good? K: Quí ông nói anh ta nghĩ vậy. Suy nghĩ có thể tạo ra tốt là gì?
1:06:51 Q: No, I meant the conception of such good. Q: Không, tôi không nói quan niệm về tốt như thế.
1:06:54 K: Yes, the conception of good is the product of thought, otherwise how can you conceive what is good? K: Vâng, quan niệm về tốt là sản phẩm của suy nghĩ, ngược lại làm sao bạn có thể quan niệm tốt là gì?
1:07:06 Q: But the conceptions cannot be derived from our self-observation. Q: Nhưng quan niệm không thể rút ra từ tự quan sát.
1:07:10 K: I'm just pointing that out. Why should you have a concept of the good at all? K: Tôi vừa chỉ ra. Tại sao bạn phải có quan niệm về tốt?
1:07:17 Q: Then how do I know whether my living is good or bad? Q: Rồi làm sao tôi biết đời tôi là tốt hay xấu?
1:07:22 K: Then how do I know whether my living is good or bad. Just listen to the question. If I have no concept of what is good, how do I know what is good or bad in my life? Don't we know what conflict is? Do I have to have a concept of non-conflict before I understand conflict, before I am aware of conflict? I know what conflict is: the struggle, the pain, conflict. Don't I know that, without knowing a state where there is no conflict? And when I formulate what is good, I will formulate it according to my conditioning. According to my way of thinking, feeling, my peculiar idiosyncrasy, etc., cultural conditioning. And is the good to be projected by thought, and will thought then tell me what is good and bad in my life? Or goodness has nothing whatsoever to do with thought or with formula. Where does goodness flower, blossom? Do tell me. In the concept, in some future idea, in some ideal? That is, in the future. A concept means a future, tomorrow. It may be very far away or very close but it's still in time. And when you have a concept projected by thought, and thought being the response of memory, response of accumulated knowledge, depending on the culture in which you have lived, and do you find that goodness in the future, created by thought, or do you find it when you begin to understand conflict, pain, sorrow? K: Rồi làm sao tôi biết đời tôi là tốt hay xấu. Chỉ nghe vấn đề. Nếu tôi không có quan niệm tốt là gì, làm sao tôi biết cái gì tốt hay xấu trong đời? Chúng ta không biết xung đột là gì sao? Tôi phải có quan niệm về không xung đột trước khi hiểu xung đột, trước khi nhận biết xung đột? Tôi biết xung đột là gì: tranh đấu, đau đớn, bạn biết, xung đột. Tôi không biết, không biết trạng thái không xung đột? Và khi tôi tạo công thức tốt là gì, tôi sẽ tạo công thức theo qui định. Theo lối suy nghĩ, cảm nhận, tính khí riêng, v.v.. qui định văn hoá. Và có phải tốt được vạch ra bởi suy nghĩ, và rồi suy nghĩ sẽ bảo tôi gì là tốt và xấu trong đời? Hay tốt không có liên quan gì với suy nghĩ hay với công thức. Nơi đâu tốt nở hoa, ra hoa? Nói tôi nghe. Trong quan niệm, trong vài ý niệm tương lai, trong lý tưởng? Tức là, ở tương lai. Quan niệm tức tương lai, ngày mai. Nó có thể rất xa hay thật gần nhưng vẫn trong thời gian. Và khi bạn có quan niệm vạch ra bởi suy nghĩ, và suy nghĩ là đáp ứng của ký ức, đáp ứng của kiến thức tích luỹ, lệ thuộc văn hoá bạn sống, và bạn tìm cái tốt trong tương lai, tạo ra bởi suy nghĩ, hay bạn tìm ra khi bạn bắt đầu hiểu xung đột, đau đớn, khổ đau?
1:10:52 So in the understanding of what is, not comparing what is with what should be, but actually what is, then in that understanding flowers goodness. Surely goodness has nothing whatsoever to do with thought, has it? Has love got anything to do with thought? Can you cultivate love by saying, my ideal of love is that, formulate it beautifully, and cultivate it? Do you know what happens when you cultivate love? You're not loving. You will think you will have love on some future date, in the meantime you are being violent, etc. So, is goodness the product of thought, is love the product of experience, of knowledge? And the second question? Vậy khi thấu hiểu đang là, không so sánh đang là với sẽ là, mà thực sự đang là thì trong thấu hiểu ấy cái tốt nở hoa. Chắc chắn tốt không liên quan với suy nghĩ, phải không? Yêu thương có liên quan gì với suy nghĩ? Có thể trau dồi yêu bởi nói, lý tưởng yêu thương là thế, tạo công thức nó đẹp đẽ và trau dồi nó? Bạn có biết gì xảy ra khi bạn trau dồi yêu thương? Bạn không yêu thương. Bạn nghĩ bạn sẽ có yêu thương một ngày tương lai, trong khi đó bạn bạo lực, v.v.. Vậy, tốt là sản phẩm của suy nghĩ, yêu là sản phẩm của kinh nghiệm, của kiến thức? Và câu hỏi thứ hai?
1:12:24 Q: The second question was about sharing in relation to comfort. Q: Câu thứ hai về chia sẻ liên quan đến dễ chịu.
1:12:32 K: Sharing. Companionship. What do you share? What are we sharing now? We talked about death, we talked about love, we talked about the necessity of total revolution, psychologically, complete change, not live in the old pattern of formulas, of struggle, pain, imitation, conformity, etc., which man has lived in for millennia, and produced this marvellous, messy world. We've talked about death, how do we share that thing together? Share the understanding of it, not the verbal statements of it, not the description of it, not the explanation of it, which are all verbal, but share, what does that mean? Share the understanding, share the truth of it. The truth which comes with the understanding of this. So, what does understanding mean? When do you understand? You tell me something which is serious, which is vital, which is relevant, which is important, and I listen to it, I listen to it completely, because it's vital to me. And to listen so vitally my mind must be quiet. If I am chattering, if I am looking somewhere else, if I am comparing what you are saying with what I know, my mind is not quiet. It's only when my mind is quiet and listens completely, then there is understanding, the understanding of the truth of the thing. That we share together, otherwise we can't share. We can't share the words, we can only share the truth of something, when you and I see the truth of something. And that can be seen only when your mind is totally committed to the observation. K: Chia sẻ. Bầu bạn. Bạn chia sẻ gì? Chúng ta đang chia sẻ gì? Chúng ta nói về cái chết, chúng ta nói về yêu thương, chúng ta nói về cần thiết của cách mạng toàn diện, thay đổi hoàn toàn, tâm lý, không sống trong khuôn cũ của công thức, của tranh đấu, đau đớn, bắt chước, tuân theo, v.v.. mà con người đã sống hàng thiên niên kỷ, và tạo ra thế giới hỗn loạn, diệu kỳ này. Chúng ta nói về cái chết, làm sao chúng ta cùng chia sẻ việc này? Chia sẻ thấu hiểu nó, không phải lời nói về nó, không phải mô tả nó, không phải giải thích nó, đều là lời nói, nhưng chia sẻ, đó nghĩa gì? Chia sẻ thấu hiểu, chia sẻ sự thật nó. Sự thật đến với thấu hiểu nó. Vậy, hiểu là nghĩa gì? Khi nào bạn hiểu? Bạn kể gì với tôi nó nghiêm túc, nó sống còn, nó thích đáng, nó quan trọng, và tôi lắng nghe nó, tôi nghe nó hoàn toàn, bởi nó sống còn với tôi. Và lắng nghe đầy sức sống trí óc phải im lặng. Nếu tôi tán gẫu, nếu tôi nhìn nơi khác, nếu tôi so sánh lời bạn với cái tôi biết, trí óc tôi không im lặng. Chỉ khi trí óc im lặng và nghe hoàn toàn, liền có thấu hiểu, thấu hiểu sự thật của việc. Đó chúng ta cùng chia sẻ, ngược lại chúng ta không thể chia sẻ. Không thể chia sẻ lời nói, chúng ta chỉ có thể chia sẻ sự thật về gì, khi bạn và tôi thấy sự thật về gì. Và đó chỉ có thể được thấy khi trí óc hoàn toàn tận tâm với quan sát.
1:16:11 To share with a friend the beauty of a sunset, to see the lovely hills and the shadows and the moonlight, how do you share it, by telling him, do look at that marvellous hill? You may say it, but is that sharing? When do you actually share something? Which means to share something with another, both of them must have the same intensity at the same time, at the same level. Otherwise you can't share, can you? You must both have the common interest with the same intensity at the same level, with the same passion, otherwise how can you share something? You can share a piece of bread, I'll give you half a bread, but that's not what we're talking about. Chia sẻ với bạn bè vẻ đẹp của hoàng hôn, nhìn ngọn đồi đáng yêu và bóng râm, và ánh trăng, làm sao bạn chia sẻ nó, bởi nói với hắn, nhìn ngọn đồi tuyệt vời? Bạn có thể nói nó, nhưng đó là chia sẻ? Khi nào bạn thực sự chia sẻ điều gì? Tức là chia sẻ việc gì với ai khác, cả hai phải có cùng cường độ ở cùng thời điểm, cùng mức độ. Ngược lại bạn không thể chia sẻ, phải không? Cả hai bạn phải có thích thú chung với cùng cường độ ở cùng mức độ, với cùng nhiệt tâm, ngược lại làm sao có thể chia sẻ? Bạn có thể chia sẻ bánh mì, tôi sẽ cho bạn nửa ổ, nhưng đó không phải việc chúng ta nói đến.
1:17:44 And to see together, which is, sharing together, we must both of us see, not agree or disagree but see together what actually is, not interpret it according to my stupid conditioning or your conditioning, but see together what it is. And to see together one must be free to observe, one must be free to listen. And that means no prejudice, I must cease to be a Hindu totally. Then only with that quality of love there is sharing. Và cùng nhìn, tức, cùng chia sẻ, cả chúng ta phải nhìn, không phải đồng ý hay không mà cùng nhìn cái đang là, không diễn dịch theo qui định ngu ngốc của tôi hay bạn, mà cùng nhìn cái hiện là. Và cùng nhìn bạn phải tự do để quan sát, bạn phải tự do để nghe. Và đó nghĩa không có định kiến, tôi phải dừng là Ấn giáo hoàn toàn. Rồi chỉ với đặc tính yêu thương ấy có chia sẻ.
1:18:55 Q: How can one quiet the mind or free the mind from interruptions of the past? Q: Làm sao một người có thể im lặng trí óc hay lìa trí óc khỏi xen ngang của quá khứ?
1:19:02 K: You've understood the question so I won't repeat it. I don't know if there is time to go into this. You cannot quieten the mind, full stop. Those are tricks. You can take a pill and make the mind quiet. You cannot, absolutely, make the mind quiet, because you are the mind. Right? You can't say, I will make my mind quiet. Therefore one has to understand what meditation is, actually, not what other people say mediation is, that's stupid, but to find out whether the mind can ever be quiet, not how to make the mind quiet. Therefore one has to go into this whole question of knowledge and whether the mind, which includes the brain, whether the brain cells, which are loaded with all the past memories, whether those brain cells can be absolutely quiet, and come into function when necessary and when not necessary be completely and wholly quiet. Perhaps we can talk about that tomorrow when we discuss what meditation is, shall we? Because it would take too long. K: Bạn đã hiểu vấn đề nên tôi sẽ không lặp lại. Không biết có thì giờ để đi sâu không. Bạn không thể im lặng trí óc, chấm hết. Chúng là trò đùa. Bạn có thể dùng thuốc và làm trí óc im lặng. Bạn không thể, tuyệt đối, làm trí óc im lặng, bởi bạn là trí óc. Đúng không? Không thể nói, tôi sẽ làm trí óc tôi im lặng. Vì vậy bạn phải hiểu thiền định là gì, thực sự, không phải cái kẻ khác nói thiền là gì, đó ngu ngốc, nhưng tìm xem trí óc có thể im lặng, không phải làm sao làm trí óc im lặng. Vì vậy bạn phải đi sâu toàn bộ vấn đề kiến thức và xem trí óc, bao gồm não, xem tế bào não, nặng nề với ký ức cũ, xem tế bão não ấy có thể tuyệt đối im lặng, và hoạt động khi cần và khi không cần, im lặng hoàn toàn và trọn vẹn. Có lẽ chúng ta có thể nói về nó ngày mai khi thảo luận thiền là gì, được không? Bởi nó sẽ rất dài.
1:21:41 Q: Sir, I have a question. Q: Thưa, tôi có câu hỏi.
1:21:43 K: Beg your pardon? K: Xin thứ lỗi.
1:21:49 Q: Sir, I have a question. You were talking about the sharing of experience. Well, I believe in the sharing of the experience of sex. And I would like to know what you feel about living a life in a state of marriage as opposed to living a life of promiscuity. Q: Tôi có câu hỏi. Ngài đã nói về chia sẻ kinh nghiệm. Tốt, tôi tin vào chia sẻ kinh nghiệm tính dục. Và tôi muốn biết ngài cảm thấy gì về sống đời sống trong trạng thái hôn nhân như nghịch với sống đời sống lang chạ.
1:22:16 K: I haven't understood your question, sir. I am sorry. Would you speak a little clearer or make it shorter? K: Tôi chưa hiểu câu hỏi. Xin lỗi. Bạn có thể nói rõ hơn chút hay ngắn hơn?
1:22:28 Q: Well, I believe in sharing the experience of sex. Like you share the experience of a sunset with someone, well, you share the experience of sex also with someone. So, I would like to know, do you believe in sharing a life in the state of a marriage? Q: Tốt, tôi tin vào chia sẻ kinh nghiệm tính dục. Như ngài chia sẻ kinh nghiệm về hoàng hôn với ai, ngài cũng chia sẻ kinh nghiệm tính dục với ai. Vậy, tôi muốn biết, ngài có tin chia sẻ đời sống trong trạng thái hôn nhân?
1:22:59 K: Have you understood? I don't quite – sharing sex? But you are sharing sex, aren't you? I don't understand the question. K: Bạn có hiểu? Tôi hoàn toàn không - chia sẻ tính dục? Nhưng bạn chia sẻ tính dục, phải không? Tôi không hiểu câu hỏi.
1:23:12 K: What, madame? K: Gì, thưa bà?
1:23:14 Q: Is celibacy a condition of love? Q: Sống độc thân là điều kiện của yêu thương?
1:23:18 K: What, sir?

Q: May I ask a question?
K: Gì nào?

Q: Tôi có thể hỏi?
1:23:21 K: You can ask anything you like. K: Bạn có thể hỏi gì bạn muốn.
1:23:27 Q: May I ask a question from the balcony, sir? Q: Tôi có thể hỏi một câu từ ban công?
1:23:37 K: Go ahead, sir. K: Tiếp tục.
1:23:38 Q: Why has time come into existence? Is it the rhythm of cosmic love? Q: Tại sao thời gian có mặt? Nó là nhịp điệu của yêu thương vũ trụ?
1:23:47 K: Oh no, sir. I can't tell you, better ask the scientists. No, just listen, sir. Please, if I may most respectfully suggest, don't ask theoretical questions. K: Ồ không. Tôi không thể nói, tốt hơn hỏi nhà khoa học. Không, chỉ nghe. Nào, nếu được phép gợi ý với kính trọng nhất, đừng hỏi câu hỏi lý thuyết.
1:24:11 Q: Sir, when you speak of relationships, you speak always of a man and a woman, or a girl and a boy. Would the same things you say about relationships also apply to a man and a man, or a woman and a woman? Q: Thưa, khi ngài nói về quan hệ, ngài luôn nói về nam và nữ hay gái và trai. Cùng việc ấy ngài có thể nói về quan hệ cũng áp dụng cho nam và nam hay nữ và nữ?
1:24:25 K: Homosexuality. K: Đồng tính.
1:24:27 Q: If you wish to give that name, yes. Q: Nếu ngài muốn cho cái tên, vâng.
1:24:34 K: When we are talking about love, whether it's man-man, woman-woman or man-woman, we're not talking of a particular kind of relationship. We're talking about the whole movement of relationship, not with one or two, the whole sense of relationship. Don't you know what it means to be related to the world, when you feel you are the world? Not as an idea, that's appalling, but actually to feel that you are responsible, that you are committed to this responsibility. And that's the only commitment, not committed through bombs or committed to a particular activity but to feel that you are the world and the world is you. Unless you change completely, radically, bring about a total mutation in yourself, do what you will outwardly, there will be no peace for man. If you feel that in your blood, then your questions will be related entirely to the present and bringing about a change in the present, not in some speculative, idiotic ideals. Sorry. K: Khi chúng ta nói về yêu thương, dù là nam-nam, nữ-nữ hay nam-nữ, chúng ta không nói về loại quan hệ riêng nào. Chúng ta nói về toàn bộ chuyển động quan hệ, không phải với một hay hai, toàn thể ý nghĩa của quan hệ. Bạn không biết liên hệ với thế giới là gì, khi bạn cảm thấy bạn là thế giới? Không như ý niệm, đó đáng sợ, mà thực tế cảm thấy bạn trách nhiệm, bạn tận tâm với trách nhiệm. Và đó là tận tâm duy nhất, không phải tận tâm qua bom đạn hay tận tâm với hoạt động riêng nào mà cảm thấy bạn là thế giới và thế giới là bạn. Trừ khi bạn thay đổi hoàn toàn, tận gốc, tạo ra chuyển hoá hoàn toàn trong chính bạn, làm gì bạn muốn bên ngoài, sẽ không hoà bình cho con người. Nếu bạn cảm thấy nó trong máu bạn, rồi vấn đề sẽ liên hệ hoàn toàn với hiện tại và tạo ra thay đổi trong hiện tại, không trong vài lý tưởng suy đoán, ngu ngốc. Xin lỗi.
1:26:28 Q: The last time we were together you were telling us that if someone has a painful experience and it's not fully faced or it's avoided, it goes into the unconscious as a fragment. How are we to free ourselves from these fragments of painful and fearful experiences so that the past won't have a grip on us? Q: Vừa qua chúng ta cùng nhau ngài nói rằng nếu ai đó có kinh nghiệm đau đớn và nó không được giáp mặt đầy đủ hay bị tránh xa, nó vào vô thức như một mảnh. Làm sao chúng ta tự lìa những mảnh kinh nghiệm đau đớn hay sợ hãi này để quá khứ không kẹp chặt chúng ta?
1:26:46 K: How does one free oneself from this conditioning? K: Làm sao bạn tự lìa qui định?
1:26:53 Q: Yes, painful experiences. Q: Vâng, kinh nghiệm đau đớn.
1:26:56 K: Yes, that is conditioning. Is it time to stop?

Q: No.
K: Vâng, đó là qui định. Đến giờ dừng à?

Q: Không.
1:27:10 K: How does one free oneself from this conditioning. Good enough, let's take that. How do I free myself from my conditioning, of a culture in which I was born, as a Hindu, as a Brahmin, etc., or as a Catholic, Protestant or a Baptist and God knows what else. How do I free myself from this vast propaganda? First, I must be aware of it that I am conditioned. Not somebody tells me that I am conditioned. You understand the difference? If somebody tells me I'm hungry, that's something different from actually being hungry. So, I must be aware of my conditioning, which means I must be aware of my conditioning not only superficially but at the deeper levels. That is, I must be aware totally. First of all, to be so aware means that I am not trying to go beyond the conditioning. I am not trying to be free of the conditioning. I must see it as it actually is, not bring in another element which is wanting to be free, because that is an escape from actuality. You are following this? So, I must be aware. What does that mean? Aware totally, not partially, of my conditioning as a Jew, Hindu, Buddhist, communist, and all that. That means my mind must be highly sensitive, otherwise I can't be aware, can I, sensitive? That means I must observe very closely everything around me, the colour, the depth, the quality of people, things around me. And I must also be aware without any choice what actually is my conditioning. Can you do that? Not trying to interpret it, not trying to change it, not trying to go beyond it or try to be free of it, just to be totally aware of it. Do you want me to go into it? K: Làm sao bạn tự lìa qui định? Khá tốt, hãy lấy đó. Làm sao tôi tự lìa qui định, của văn hoá tôi được sinh ra, như Ấn giáo, như Bà la môn, v.v.. hay như Công giáo, Tin lành hay Báp-tít và Chúa biết gì khác. Làm sao tự thoát tuyên truyền rộng khắp này? Trước hết, tôi phải nhận biết tôi bị qui định. Không phải ai bảo tôi bị qui định. Bạn hiểu sự khác nhau? Nếu ai bảo tôi là tôi đói, đó là gì khác với đói thực sự. Vậy, tôi phải biết qui định tôi, tức tôi phải biết qui định không chỉ bên ngoài mà ở mức độ sâu hơn. Tức là, tôi phải biết hoàn toàn. Trước hết, biết vậy nghĩa là tôi không cố vượt qua qui định. Tôi không cố lìa qui định. Tôi phải nhìn nó như nó là, không đem yếu tố khác tức là muốn thoát, bởi đó là chạy trốn thực tế. Bạn theo kịp không? Vậy, tôi phải biết. Đó nghĩa gì? Biết hoàn toàn, không thành phần, qui định tôi như Do thái, Ấn giáo, Phật tử, cộng sản, và mọi thứ. Đó nghĩa trí óc phải nhạy bén cao độ, ngược lại tôi không thể biết, phải không, nhạy bén? Tức là tôi phải quan sát thật kỹ mọi thứ quanh tôi, màu sắc, chiều sâu, tính chất con người, vật quanh tôi. Và tôi cũng phải nhận biết mà không chọn lựa cái hiện là qui định tôi. Bạn có thể làm thế? Không cố diễn dịch nó, không cố thay đổi nó, không cố vượt qua nó hay cố thoát nó, chỉ hoàn toàn nhận biết nó. Bạn có muốn tôi đi sâu nó?
1:30:58 K: You have time and the energy? K: Bạn có thời gian và năng lực?
1:31:00 A: Yes. A: Vâng.
1:31:01 K: Don't clap, it's all right, I'll go on. When you observe a tree, there is between you and the tree, time and space, isn't there? And there is also knowledge about the tree, the botanical knowledge of the tree, the distance between you and the tree, which is time, and the separation which comes through knowledge of the tree. To look at that tree without knowledge, without the time quality. Which doesn't mean identifying yourself with the tree. To do that, that is, to observe a tree so attentively that the boundaries of time don't come into it at all. The boundaries of time come in only when you have knowledge about the tree. You see that? Am I complicating it? K: Đừng vỗ tay, được rồi, tôi sẽ tiếp tục. Khi bạn quan sát cây, có giữa bạn và cây, thời gian và không gian, phải không? Và cũng có kiến thức về cây, kiến thức thực vật học về cây, khoảng cách giữa bạn và cây, là thời gian, và phân chia đến qua kiến thức về cây. Nhìn cây mà không kiến thức, không tính chất thời gian. Nó không nghĩa đồng hoá bạn với cây. Làm thế, tức là, quan sát cây rất chú tâm ranh giới thời gian không xen vào gì cả. Ranh giới thời gian chỉ xen vào khi bạn có kiến thức về cây. Bạn hiểu chứ? Tôi làm phức tạp quá?
1:32:39 Q: No. Q: Không.
1:32:41 Q: Yes. Q: Vâng.
1:32:52 K: I'll bring it nearer. To look at your wife or your friend or your boy, girl, or your man and man, or whatever it is - please don't waste time laughing, it isn't worth it - to look without the image. The image is the past, isn't it? The past which has been put together by thought, as nagging, bullying, dominating, insult, the images that one builds about another, the pleasure, and all that. Now, to look at another without the image. It is the image that separates, it's the image that gives distance, the time. So, the image is the knowledge which you have accumulated as the past. Now, to look without that image, to look at that tree or the flower or the cloud or the wife or the husband, the boy, and so on, man and man, to look without the image. If you can do that then you can observe your conditioning totally. Then you look at it with a mind that is not spotted by the past, and therefore the mind itself is free of the conditioning. To look at myself, we generally do as an observer looking at the observed, myself as the observed and the observer looking at it. The observer is the knowledge, is the past, is the time, the accumulated experiences. He separates himself from the thing observed. Now, to look without the observer. And you do this. You do this when you are completely attentive. You know what it means to be attentive? Don't go to school to learn to be attentive. To be attentive here, it means to listen without any interpretation, without any judgment, just to listen. When you are so listening there is no boundary. There is no you listening, there is only a state of listening. So when you observe your conditioning, the conditioning exists only in the observer, not in the observed. Right? So to look without the observer, without the me, his fears, his anxieties, etc., then you will see, if you so look, you enter into a totally different dimension. K: Tôi sẽ đem nó gần hơn. Nhìn vợ hay bạn hay trai, gái, hay nam và nam, hay gì gì - xin đừng mất thời gian cười, nó không đáng - nhìn không hình ảnh. Hình ảnh là quá khứ, phải không? Quá khứ được gom lại bởi suy nghĩ, như cằn nhằn, ức hiếp, thống trị, mắng mỏ, hình ảnh bạn dựng lên về kẻ khác, thú vui, và mọi thứ. Giờ, nhìn kẻ khác mà không hình ảnh. Chính hình ảnh phân chia, chính hình ảnh cho khoảng cách, thời gian. Vậy, hình ảnh là kiến thức mà bạn đã tích luỹ như quá khứ. Giờ, nhìn mà không hình ảnh, nhìn cây hay hoa hay mây hay vợ hay chồng, trai, v.v.., nam và nam, nhìn không hình ảnh. Nếu bạn có thể làm thế thì bạn có thể quan sát qui định hoàn toàn. Rồi bạn nhìn nó với trí óc không bị vấy bẩn bởi quá khứ, và vì vậy trí óc tự nó lìa qui định. Nhìn chính mình, chúng ta thường làm như người quan sát nhìn vật quan sát, tôi như vật quan sát và người quan sát nhìn nó. Người quan sát là kiến thức, là quá khứ, là thời gian, kinh nghiệm tích luỹ. Hắn phân chia hắn với vật quan sát. Giờ, nhìn mà không người quan sát. Và bạn làm nó. Bạn làm nó khi bạn hoàn toàn chú tâm. Bạn biết chú tâm là gì? Đừng đến trường để học chú tâm. Chú tâm ở đây, nghĩa là lắng nghe mà không diễn dịch, không phán đoán, chỉ lắng nghe. Khi bạn nghe vậy không có ranh giới. Không có bạn nghe, chỉ có trạng thái nghe. Vậy khi bạn quan sát qui định, qui định chỉ có mặt trong người quan sát, không trong vật quan sát. Đúng không? Vậy nhìn không người quan sát, không tôi, sợ, lo âu, v.v.. thì bạn sẽ thấy, nếu bạn nhìn vậy, bạn đi vào chiều kích hoàn toàn khác.