Krishnamurti Subtitles home


SD74CA13 - Một lối sống khác
Buổi nói chuyện thứ 13 với Allan W. Anderson
San Diego, USA
26 February 1974



0:38 Krishnamurti in Dialogue with Dr. Allan W. Anderson Krishnamurti Đối thoại với Dr. Allan W. Anderson
0:43 J. Krishnamurti was born in South India and educated in England. For the past 40 years he has been speaking in the United States, Europe, India, Australia, and other parts of the world. From the outset of his life's work he repudiated all connections with organised religions and ideologies and said that his only concern was to set man absolutely unconditionally free. He is the author of many books, among them The Awakening of Intelligence, The Urgency of Change, Freedom From the Known, and The Flight of the Eagle. This is one of a series of dialogues between Krishnamurti and Dr. Allan W. Anderson, who is professor of religious studies at San Diego State University where he teaches Indian and Chinese scriptures and the oracular tradition. Dr. Anderson, a published poet, received his degree from Columbia University and the Union Theological Seminary. He has been honoured with the distinguished Teaching Award from the California State University. J. Krishnamurti sinh ra ở Nam Ấn Độ và được học hành ở Anh. Bốn mươi năm qua ông nói chuyện ở Hoa kỳ, châu Âu, Ấn độ, Úc, và các nơi khác trên thế giới. Từ khởi đầu đạo nghiệp ông đã từ chối mọi liên hệ với các tôn giáo có tổ chức và ý thức hệ và nói rằng quan tâm duy nhất của ông là trả lại con người tự do tuyệt đối vô điều kiện. Ông là tác giả của nhiều sách, trong đó có Đánh Thức Trí Thông Minh, Khẩn Thiết Thay đổi, Thoát Khỏi Cái Biết, và Tung Cánh Đại Bàng. Đây là một trong loạt đối thoại giữa Krishnamurti và Dr. Allan W. Anderson, giáo sư về nghiên cứu tôn giáo tại Đại học San Diego State nơi ông dạy kinh điển Ấn độ và Trung hoa và truyền thống tiên tri. Dr. Anderson, nhà thơ nổi danh, đã nhận học vị từ Đại học Columbia và Trường Dòng Hiệp Hội Thần Học. Ông được vinh danh với Phần thưởng Dạy học nổi tiếng từ Đại học California State.
1:51 A: Mr. Krishnamurti, at the end of our last conversation, if I remember correctly, we were looking into the relationships among living, and love, and death. That is we had just begun to when we had to bring our discussion to an end. I was hoping today that we might pursue this in terms of our continuing concern for the transformation of man. A: Ngài Krishnamurti, cuối buổi nói chuyện qua, nếu tôi nhớ đúng, chúng ta tìm hiểu quan hệ giữa sống và yêu thương, và chết. Tức là chúng ta vừa bắt đầu khi phải chấm dứt buổi nói chuyện. Hy vọng hôm nay chúng ta có thể dõi theo mối quan tâm tiếp tục sự chuyển hoá con người.
2:26 K: As usual, sir, this is such a complex question, this living, what it means and what it actually is, and love, which we talked about the other day fairly in detail and rather closely, and also this enormous problem of death. Every religion has offered a comforting belief, comforting ideas, hoping there would be a solution for the fear, sorrow, and all the things that are involved in it. So I think, perhaps we should begin with what is living and then go from there to love and death.

A: Good.
K: Như thường khi, đây là vấn đề phức tạp, sống, nó nghĩa gì và thực sự nó là gì, và yêu thương, chúng ta đã nói hôm nọ khá chi tiết và đúng hơn là tỉ mỉ, và cũng vấn đề lớn lao về cái chết. Mỗi tôn giáo cho một niềm tin dễ chịu, ý niệm dễ chịu, hy vọng có giải pháp cho sợ hãi, đau khổ, và mọi thứ dính trong đó. Vậy tôi nghĩ, có lẽ chúng ta nên bắt đầu với sống là gì và rồi từ đó đi đến yêu và chết.

A: Tốt.
3:38 K: Shouldn't we actually look at what we call living now, what is taking place.

A: Yes.
K: Chúng ta không thực sự nhìn cái gọi là sống, điều gì xảy ra.

A: Vâng.
3:51 K: What actually is going on, which we call existence, living, those two words to cover this whole field of man's endeavour to better himself, not only in the technological world, but also psychologically, he wants to be different, he wants to be more than what he is, and so on. So when we look at it in whatever country, and whatever race, or whatever religion they belong to, it is a matter of constant struggle from the moment you are born to the moment you die, it is one battle. Not only in relationship with other human beings, - intimate or not intimate - but also economically, socially, morally, it is a vast battle. I think everyone agrees to that. And that's obvious. The conflict, the struggle, the suffering, the pain, the frustrations, the agony, the despairs, the violence, the brutality, killing each other - all that is what is actually going on. Spending 40, 50 years in an office, in a factory, occasional holidays for a month, and a wild kind of holidays, because the holidays are a reaction to their monotonous life. K: Cái gì thực sự xảy ra, chúng ta gọi là có mặt, sống, hai chữ ấy che phủ toàn bộ lĩnh vực nổ lực của con người cho hắn tốt hơn, không chỉ trong lĩnh vực kỹ thuật, mà cả tâm lý, hắn muốn gì khác, hắn muốn gì hơn hắn là, v.v.. Vậy khi chúng ta nhìn nó dù ở xứ nào, và chủng tộc nào, hay tôn giáo nào hắn thuộc về, là vấn đề tranh đấu không ngừng từ lúc sinh ra cho đến lúc chết, là chiến trường. Không chỉ trong quan hệ với người khác, - thân hay không thân - mà cả kinh tế, xã hội, đạo đức, là cuộc chiến rộng khắp. Tôi nghĩ mọi người đồng ý. Và hiển nhiên. Xung đột, đấu tranh, đau khổ, đau đớn, thất vọng, thống khổ, tuyệt vọng, bạo lực, tàn ác, giết nhau - mọi cái đó thực sự xảy ra. Dành 40, 50 năm trong văn phòng, nhà máy, đôi khi nghỉ một tháng, và một loại nghỉ bừa, bởi nghỉ là phản ứng với cuộc sống vô vị.
5:48 A: Time out.

K: Time out, or whatever it is called. You see them all over Europe, America, going from museum to museum, looking at this, that, rushing about, and that is an escape from the monotony of their daily routine. And they go off to India, and there are, I believe, about 15,000 so-called hippies in various dresses, and various monasteries, and various cities, doing the most fantastic things, selling drugs - some of them - and putting on Indian clothes, dressing up as monks, and all that. It is a kind of vast romantic sentimental escape from their daily monotonous routine life. That is what we call living: the battle in relationship, the battle in business, in economic environment. It is a constant struggle.
A: Hết giờ.

K: Hết giờ, hay được gọi gì gì. Bạn thấy họ khắp châu Âu, Mỹ, đi đến bảo tàng này nọ, nhìn này kia, hối hả loanh quanh, và đó là chạy trốn lối mòn vô vị hàng ngày. Và họ bỏ đến Ấn, và có, tôi tin là, khoảng 15 ngàn cái gọi là híp-py đủ loại quần áo, và đủ thứ tu viện, và nhiều thành phố, làm những việc kỳ cục, bán ma tuý - vài người - và khoát y phục Ấn, mặc như thầy tu, và mọi thứ. Là loại chạy trốn đa cảm lãng mạn rộng rãi khỏi lối mòn vô vị hàng ngày. Đó là cái gọi là sống: đánh trong quan hệ, đấu trong kinh doanh, trong môi trường kinh tế. Chiến đấu bất tận.
7:08 A: What you've said seems to be ingrained into the grasp of this living itself. We have a saying: life is a battle. We interpret it in terms of what you have said. A: Điều ngài nói hình như ăn sâu nắm lấy chính sự sống. Chúng ta có câu: sống là tranh đấu. Chúng ta diễn giải nó trong điều ngài nói.
7:27 K: And nobody seems to say, why should it be that way? And we have all accepted it. We say, yes, it is part of our existence. If we don't struggle, we are destroyed. It is a part of our natural inheritance. From the animal, we see how it struggles, so we are part of the animal, part of the ape, and we must go on struggling, struggling, struggling. We have never said, is this right? Is this the way to live? Is this the way to behave, to appreciate the beauty of living? K: Và có vẻ không ai nói, tại sao phải là lối ấy? Và chúng ta đều chấp nhận. Chúng ta nói, vâng, là một phần cuộc sống. Nếu không tranh đấu, chúng ta bị tiêu diệt. Nó là một phần thừa kế tự nhiên. Từ thú vật, thấy nó đấu tranh thế nào, nên chúng ta là một phần thú, một phần dã nhân, và phải tiếp tục đấu, đấu, tranh tranh. Chúng ta không hề nói, vậy đúng không? Đó là lối sống? Là lối cư xử, thưởng thức vẻ đẹp cuộc sống?
8:21 A: The usual question turns on how to engage the battle more effectively. A: Vấn đề thường mở ra làm sao chiến đấu hiệu quả hơn.
8:26 K: Effectively, successfully, with least harm, with least strain, with least heart failure, and so on. But the ground is prepared for struggle. The monks do it - you follow, sir? - the religious people do it, the business, the artist, the painter, every human being, however compartmentalised he is, he is in battle. And that we call living. And a man looks at it - an intelligent man, he says, for God's sake, that's not the way to live. Let's find out if there is a different way of living. And nobody asks. I have talked to a great many politicians all over the world, and to a great many gurus. We will come to that, it's very interesting that word, what it means. We'll go into that. And I've talked to artists, to businessmen, to artisans, to labourers, very, very poor people: it is one constant battle. The rich, the poor, the middle class, the scientist - you follow, sir? K: Hiệu quả, thành công, với ít tổn hại, ít căng thẳng, ít suy tim, v.v.. Nhưng nền vẫn là chuẩn bị chiến đấu. Sư sãi làm thế - kịp không? người tu hành làm thế, doanh nhân, nghệ sĩ, hoạ sĩ, mọi người, dù bị phân định thế nào, hắn đang chiến đấu. Và đó gọi là sống. Và người nhìn nó - kẻ thông minh, hắn nói, vì Chúa, đó không phải lối sống. Hãy tìm xem có chăng lối sống khác. Và không ai hỏi. Tôi đã nói với rất nhiều chính trị gia khắp thế giới, và với rất nhiều đạo sư. Chúng ta sẽ đến đó, là chữ rất thú vị, nó nghĩa gì. Chúng ta sẽ đi sâu. Và tôi đã nói với nghệ sĩ, doanh nhân, thợ thủ công, lao động, người rất nghèo: là cuộc chiến bất tận. Giàu, nghèo, trung lưu, nhà khoa học - kịp không?
10:03 A: Oh yes, I'm following. A: Ồ vâng, theo kịp.
10:04 K: And nobody says: this is wrong! This isn't living, It's bleeding! K: Và không ai nói: này sai! Đây không phải sống, Là đổ máu!
10:15 A: I was thinking about the literatures of the world of a visionary nature that tend to be divided into three basic statements in terms of their form and content. On the one hand, we have epics that deal precisely with the representation of the battle of life. A: Tôi nghĩ văn chương thế giới về bản chất tưởng tượng có khuynh hướng chia làm ba câu nói cơ bản về hình thức và nội dung. Một mặt, chúng ta có sử thi chính xác đề cập đến miêu tả về chiến đấu của sự sống.
10:42 K: We have got the Odyssey, we have got the Mahabharata, we have got so many other books, all praising this thing. K: Chúng ta có Odyssey, chúng ta có Mahabharata, có quá nhiều sách khác, đều ca ngợi việc này.
10:50 A: And then others deal with what we call the journey of life, the Odyssey would be specifically related to that; there are many battles concerned within it in terms of confrontations between individuals. And then there's the notion of life as a fulfilment. But we hardly ever get to the question of the fulfilment. And when these are studied, they are studied in terms of a literary form, and the question that you've raised, - which, it seems to me, would be a question that should be presented to the student in general... A: Và rồi cái khác đề cập đến cái gọi là hành trình sự sống, Odyssey đặc trưng liên quan nó; có nhiều cuộc chiến đề cập trong nó về sự đối đầu giữa những cá nhân. Và rồi có khái niệm sống như hoàn thành. Nhưng chúng ta khó mà có được vấn đề hoàn thành. Và khi chúng được nghiên cứu, họ nghiên cứu về hình thức văn học, và vấn đề ngài đưa lên, - dường như, là vấn đề nên được giới thiệu chung cho học sinh...
11:30 K: And it is an authentic question, it's a question that must be put. K: Và là vấn đề xác thực, là vấn đề phải được đặt.
11:38 A: I was reflecting as you were speaking that in the class room itself it's taken for granted that this battle is what it is. It is to be related to with fortitude, and so forth, but the question concerning it doesn't arise. A: Tôi ngẫm nghĩ khi ngài nói chính trong lớp học xem như đương nhiên đấu tranh là như vậy. Nó liên quan với kiên cường, v.v.. nhưng vấn đề liên quan nó không khởi lên.
11:55 K: No, to some young people it has arisen, but they go off at a tangent. K: Không, với vài bạn trẻ nó khởi lên, nhưng họ đi chệch ngoài vấn đề.
12:02 A: Exactly.

K: Either a commune, or become a Hindu - you follow? - go off to some ancient country and just disintegrate, do nothing, think nothing, just live.
A: Đúng.

K: Công xã, hay theo Ấn giáo - kịp không? - đến vài xứ cổ xưa và chỉ tan rả, không làm gì, không nghĩ gì, chỉ sống.
12:19 A: Which is really a lateral movement. A: Thực sự là chuyển động ngang.
12:21 K: Lateral.

A: Not a vertical one.

K: That's right.
K: Ngang.

A: Không chuyển động đứng.

K: Đúng.
12:24 A: Into the question. Yes. A: Vào vấn đề. Vâng.
12:25 K: So it is a valid question, and it must have a valid answer, not theoretical, but say, well, I will live that way. I will live without conflict. See what it means. I may be smothered. I question whether you will be wiped out by society, if you don't struggle. I've never struggled personally. I have never thought of battling with myself or with somebody else. So, I think, a question of that kind must not only be put verbally, but in the expression of that word one must see if it is possible for each one of us to live that way, to live without a single conflict. That means without division. Conflict means division. Conflict means the battle of the opposites. Conflict means you and me, we and they, Americans, Russians, you know, division, division, division. Fragmentation not only inwardly, but outwardly. Where there is fragmentation there must be battle. One fragment assuming the power and dominating the other fragments. So, an intelligent man - if there is such a person - has to find out a way of living which is not going to sleep, which is not just vegetating, which is not just escaping to some fanciful mystical visions, and all that stuff, but a way of living in daily life, in which conflict of any kind has come to an end. It is possible. I have watched it all around me, for the last 50 years, the battle going on around me, spiritually, economically, socially, one class battling the other class, and the dictatorships, the fascists, the communists, the Nazis - you follow, sir?

A: Yes, I do.
K: Vậy là câu hỏi giá trị, và phải có lời đáp giá trị, không lý thuyết, mà nói, à, tôi sẽ sống vậy. Tôi sẽ sống không xung đột. Xem nó nghĩa gì. Tôi có thể bị ngột ngạt. Tôi hỏi xem bạn có bị xã hội quét đi, nếu bạn không tranh đấu. Cá nhân tôi không hề tranh đấu. Tôi không hề nghĩ tranh đấu với tôi hay với ai khác. Vậy, tôi nghĩ, vấn đề loại này không phải chỉ được đặt bằng lời, mà trong biểu lộ của chữ ấy bạn phải nhìn xem có thể nào mỗi chúng ta sống lối ấy, sống không chút xung đột. Nó nghĩa không phân chia. Xung đột là phân chia. Xung đột là chiến đấu với cái đối nghịch. Xung đột là bạn và tôi, chúng ta và họ, Mỹ, Nga, bạn biết đó, phân, phân, chia, chia. Vỡ vụn không chỉ bên trong, mà cả bên ngoài. Nơi có vỡ vụn phải có chiến đấu. Mảnh này cho là quyền lực và thống trị mảnh kia. Vậy, người thông minh - nếu có người như thế - phải tìm ra lối sống sẽ không đi ngủ, không chỉ sống vô vị, không chỉ trốn vào vài ảo tưởng kỳ cục, thần bí, và mọi rác rưỡi, mà lối sống trong sống hàng ngày, ở đó mọi thứ xung đột chấm dứt. Có thể. Tôi nhìn nó quanh tôi, đã 50 năm, chiến đấu xảy ra quanh tôi, tâm linh, kinh tế, xã hội, giai cấp này đấu giai cấp kia, và độc tài, phát xít, cộng sản, Nazis - kịp không?

A: Vâng, kịp.
15:16 K: All of them have their roots in this: encouraging obedience, discouraging obedience, imitating, conforming, obeying - all battle. So life has become a battle. And to me personally, to live that way is the most destructive, uncreative way of living. I won't live that way. I would rather disappear! K: Tất cả họ có gốc trong đây: khuyến khích vâng lời, làm nản chí vâng lời, bắt chước, tuân theo, vâng lời - đều chiến đấu. Vậy sống thành chiến đấu. Và với cá nhân tôi, sống lối ấy là lối sống phá hoại nhất, không sáng tạo. Tôi không sống lối ấy. Tôi thà biến mất còn hơn!
15:59 A: I think, perhaps - and I wonder if you would agree - that some sort of confusion has arisen here in our minds, when we identify ourselves with this battle in terms of your description of it. When we begin to think about the question: 'ought this to continue', and we have the image of battle before us, we tend to imagine to ourselves that what we're really talking about is the human equivalent of what is called 'nature red in tooth and claw'. A: Tôi nghĩ, có lẽ - và tôi tự hỏi ngài có đồng ý vài loại rối loạn nổi lên ở đây trong trí óc, khi chúng ta đồng hoá mình với chiến đấu về mặt ngài mô tả nó. Khi chúng ta bắt đầu nghĩ về vấn đề: 'này phải tiếp tục', và chúng ta có hình ảnh trận chiến trước mắt, chúng ta hướng đến tưởng tượng với mình cái chúng ta thực sự nói đến người tương đương cái được gọi là 'bản chất đỏ trong răng và móng vuốt'
16:45 K: Quite. K: Đúng.
16:46 A: But, if I am following you correctly, this is a cardinal mistake, because in our previous conversations you have, at least for me, very clearly indicated that we must distinguish between fear and danger; and the animals, in their own environment, act with clean and immediate dispatch in the presence of danger, whereas it seems we are making a mistake, if we attempt to study what we call human conflict on the level of this analogy, because analogy, if I have understood you correctly, simply doesn't apply. A: Nhưng, nếu tôi theo kịp ngài, đây là sai lầm chủ yếu, bởi trong buổi nói chuyện trước, ít ra cho tôi, ngài chỉ rất rõ chúng ta phải phân biệt giữa sợ và nguy hiểm; và thú vật, trong môi trường riêng, hành động với giải quyết nhanh gọn khi đối mặt hiểm nguy, ngược lại hình như chúng ta tạo sai lầm, nếu cố gắng nghiên cứu cái gọi xung đột con người ở mức độ tương tự, bởi tương tự, nếu tôi hiểu ngài đúng, đơn giản không áp dụng.
17:32 K: Doesn't, no. K: Không, không.
17:33 A: But don't you agree that this tends to be done? A: Nhưng ngài không đồng ý nó xu hướng được làm?
17:36 K: Oh rather, sir. We study the animal, or the birds, in order to understand man.

A: Right.
K: Ồ có chứ. Chúng ta nghiên cứu thú, hay chim, để hiểu người.

A: Đúng.
17:43 K: Whereas you can study man, which is yourself. You don't have to go to the animal to know man. So, that is, sir, really a very important question, because I have, if I may talk a little about myself, I've watched it all.

A: Please do.
K: Ngược lại bạn có thể nghiên cứu người, là bạn. Bạn không cần đến thú để hiểu người. Vậy, đó là, thực sự vấn đề rất quan trọng, bởi tôi, xin được nói một chút về mình, tôi nhìn nó hết.

A: Mời.
18:05 K: I've watched it in India. The sannyasis, the monks, the gurus, the disciples, the politicians all over the world. I've happened to have, somehow I have met them all - the writers, the famous people, the painters who are very well-known, most of them have come to see me. And it is a sense of deep anxiety, that if they don't struggle they will be nothing. They will be failures, that is, that way of living is the only and righteous way of living. K: Tôi nhìn nó ở Ấn. Khổ hạnh, sư sãi, đạo sư, môn đồ, chính trị gia khắp thế giới. Ngẫu nhiên, cách nào đó tôi gặp hết họ - nhà văn, người nổi tiếng, hoạ sĩ rất danh tiếng, hầu hết họ đến viếng tôi. Và là cảm giác lo âu sâu thẳm, nếu không đấu tranh họ sẽ không là gì. Họ sẽ thất bại, tức là, lối sống ấy, là lối sống duy nhất và đúng đắn.
18:55 A: To drive oneself to be what is called productive. A: Thôi thúc mình là gì đó gọi là hữu ích.
18:58 K: Productive, progressive.

A: Progressive.
K: Hữu ích, tiến bộ.

A: Tiến bộ.
19:01 K: And we are taught this from childhood. K: Và chúng ta được dạy đó từ nhỏ.
19:05 A: Oh yes.

K: Our education is that. To battle not only with yourself - with your neighbour, and yet love the neighbour, you follow? It becomes too ridiculous. So, having stated that, is there a way of living without conflict? I say, there is, obviously. Which is to understand the division, to understand the conflict, to see how fragmented we are, not try to integrate the fragments, which is impossible, but out of that perception the action is entirely different from integration. Seeing the fragmentations which bring about conflict, which bring about division, which bring about this constant battle, anxiety, strain, heart failure. You follow, sir? That is what is happening. To see it, to perceive it, and that very perception brings an action, which is totally different from the action of conflict. Because the action of conflict has its own energy, brings its own energy, which is divisive, which is destructive, violent. But the energy of perception and acting is entirely different. And that energy is the energy of creation. Anything that is created cannot be in conflict. An artist who is in conflict with his colours, he is not a creative human being. He may have perfect craft, perfect technique, a gift for painting, but that's...
A: Ồ vâng.

K: Giáo dục là vậy. Đánh nhau không chỉ với chính bạn - với hàng xóm, và tuy vậy yêu hàng xóm, kịp không? Nó thành quá buồn cười. Vậy, đã nói thế, có chăng lối sống không xung đột? Tôi nói, có, dĩ nhiên. Tức là hiểu phân chia, hiểu xung đột, thấy làm sao chúng ta bị vỡ vụn, không cố gắng kết hợp các mảnh, là không thể, mà từ nhận thấy ấy hành động là hoàn toàn khác với kết hợp. Nhìn sự vỡ vụn sinh ra xung đột, sinh ra phân chia, sinh ra chiến đấu bất tận, lo âu, căng thẳng, suy tim. Kịp không? Đó là việc đang xảy ra. Nhìn nó, nhận biết nó, và chính nhận biết ấy đem đến hành động, hoàn toàn khác với hành động của xung đột. Bởi hành động của xung đột có năng lực riêng, đem đến năng lực riêng, là phân chia, là phá hoại, bạo lực. Nhưng năng lực của nhận biết và hành động là hoàn toàn khác. Và năng lực ấy là năng lực của sáng tạo. Cái được sáng tạo không thể trong xung đột. Nghệ sĩ xung đột với màu sắc, hắn không là người sáng tạo. Hắn có thể có tay nghề, kỹ thuật hoàn hảo, năng khiếu hội hoạ, nhưng đó...
21:21 A: It interests me very much that you've used the word 'energy' here in relation to both activities.

K: Both activities, yes.
A: Nó làm tôi rất thích ngài dùng chữ 'năng lực' ở đây liên quan cả hai hoạt động.

K: Cả hai hoạt động, vâng.
21:30 A: You haven't said that the energy at root is different.

K: No, no.
A: Ngài không nói năng lực ở gốc khác nhau.

K: Không.
21:36 A: The phenomenon is different.

K: Yes.
A: Hiện tượng thì khác.

K: Vâng.
21:39 A: It would appear that when one makes success, prosperity, victory, the object of his activity, and engages this conflict, - which he interprets as engaging him, he always tends to think that 'things are coming at me'. When he undertakes this, if I have understood you correctly, energy is released, but it is released in fragmentary patterns. A: Dường như khi người tạo thành công, thịnh vượng, chiến thắng, mục đích hoạt động, và dính vào xung đột này, - hắn diễn giải như lôi cuốn hắn, hắn luôn có hướng nghĩ rằng 'việc đến với tôi'. Khi hắn đảm nhận nó, nếu tôi hiểu ngài đúng, năng lực được tuôn chảy, nhưng chảy trong khuôn vỡ vụn.
22:18 K: The other way, yes.

A: Yes. Whereas the energy that's released with perception is the same energy, is always whole.

K: Is whole. Yes, sir, that's right.
K: Lối khác, vâng.

A: Vâng. Trong khi năng lực được tuôn chảy với nhận biết là cùng năng lực, luôn là toàn thể.

K: Toàn thể. Vâng, đúng vậy.
22:30 A: Isn't that what you are...

K: Yes, sir. That's right. Therefore sane, therefore healthy, therefore holy - h,o,l,y.

A: Yes. I have the feeling that this release of energy which shatters out into patterns of energy as fragmentation, is really what we mean by the word 'demonic'.
A: Không phải ngài...

K: Vâng. Đúng. Vì vậy sáng suốt, vì vậy lành mạnh, vì vậy thiêng liêng.

A: Vâng. Tôi có cảm giác năng lực tuôn chảy này tan vào khuôn năng lực vỡ vụn, thực sự là nghĩa chữ 'ma quỷ'.
22:59 K: Demonic, that's right. K: Ma quỷ, đúng vậy.
23:01 A: That's giving it a hard name.

K: But it is a good name. It's an excellent name.

A: But you are really saying this, aren't you? I am saying this.
A: Đó cho nó cái tên khó.

K: Nhưng là tên tốt. Là tên tuyệt vời.

A: Nhưng ngài thực nói vậy, phải không? Tôi nói vậy.
23:08 K: But I agree, I totally see that with you. I see it is demonic. It is the very destructive thing. K: Nhưng đồng ý, tôi hoàn toàn thấy vậy với bạn. Tôi thấy nó là ma quỷ. Là việc rất phá hoại.
23:18 A: Exactly. A: Đúng.
23:20 K: And that's what our society is, our culture is. K: Và đó là xã hội, văn hoá.
23:27 A: What we've done to that word 'demonic'! I was just thinking about Socrates, who refers to his 'daimon' meaning the energy that operates in wholeness. A: Điều chúng ta đã làm cho chữ 'ma quỷ'! Tôi vừa nghĩ về Socrates, kẻ nói đến chữ 'ma quỷ' nghĩa năng lực hoạt động trong toàn thể.
23:43 K: That's right, sir. K: Đúng vậy.
23:44 A: And we have taken that word from the Greek clear out of the context of the apology and turned it upside down, and now it means... A: Và chúng ta lấy chữ ấy từ Hy lạp xoá đi bối cảnh biện hộ và lộn ngược nó lên, và giờ nó là...
23:54 K: The devil.

A: Right. And the same thing happened with the use of the word 'the asuras'. Originally in the Veda, this was not a reference to the demonic, there was no radical polarisation.

K: No, no, no, quite.
K: Ma quỷ.

A: Đúng. Và việc như vậy xảy ra với cách dùng chữ 'ma quỷ'. Gốc trong Veda, nó không liên quan chữ ma quỷ, không có phân cực triệt để.

K: Không, không, không.
24:16 A: And finally we end up with the gods and the demons. A: Và cuối cùng chúng ta kết thúc với thần và quỷ.
24:20 K: Quite. K: Đúng.
24:21 A: Which, I take it you are suggesting, is nothing other than the sheerest projection of our own demonic behaviour which we have generated ourselves.

K: That's right.
A: Cái, tôi hiểu ngài gợi ý, không gì khác hơn sự hiện hình rõ nhất thái độ ma quỷ chúng ta tự tạo ra.

K: Đúng vậy.
24:32 A: This makes tremendous sense to me. Please go on. A: Việc này tạo ý nghĩa lớn với tôi. Mời tiếp tục.
24:35 K: So, the way we live is the most impractical, insane way of living. And we want the insane way of living made more practical. K: Vậy, lối chúng ta sống là lối sống phi thực tế nhất, khùng điên nhất. Và muốn lối sống khùng điên được làm thực tế hơn.
24:55 A: Yes, and there isn't a prayer for it. A: Vâng, và không có lời cầu nguyện cho nó.
25:00 K: But that is what we are demanding all the time. We never say, let's find a way of living which is whole, - and therefore healthy, sane, and holy. And through that, through perceiving, acting is the release of total energy, which is non-fragmentary, which isn't the artist, the business man, the politician, the priest, the layman - all that doesn't exist at all. Now, to bring about such a mind, such a way of living, one has to observe what actually is taking place outside and inside, in us, inside and outside. And look at it, not try to change it, not try to transform it, not try to bring about different adjustment, see actually what it is. I look at a mountain, I can't change it. Even with a bulldozer I can't change it. But we want to change what we see. The observer is the observed, you understand, sir? Therefore, there is no change in that. Whereas in perception there is no observer. There is only seeing, and therefore acting. K: Nhưng đó là cái chúng ta luôn đòi hỏi. Chúng ta không hề nói, hãy tìm lối sống toàn thể, - và vì thế lành mạnh, sáng suốt, và thánh thiện. Và qua đó, qua nhận thấy, hành động là tuôn chảy năng lực toàn thể, không vỡ vụn, không phải nghệ sĩ, doanh nhân, chính trị gia, thầy tu, thường dân - mọi cái đó không có mặt. Giờ, để sinh ra trí óc như thế, lối sống như thế, bạn phải quan sát việc đang xảy ra bên ngoài và bên trong, trong chúng ta, trong và ngoài. Và nhìn nó, không cố gắng thay đổi nó, không cố chuyển hoá nó, không cố sinh ra điều chỉnh khác, nhìn thực tế nó như vậy. Tôi nhìn quả núi, tôi không thể thay đổi nó. Ngay cả với xe ủi tôi không thể thay đổi nó. Nhưng chúng ta muốn thay đổi cái chúng ta nhìn. Người quan sát là vật quan sát, hiểu không? Vì vậy, không có thay đổi gì trong đó. Ngược lại trong nhận thấy không có người quan sát. Chỉ có nhìn, và vì vậy hành động.
26:44 A: This holds a mirror up to an earlier conversation we had when you referred to beauty, passion, suffering. A: Nó nắm tấm gương đến buổi nói gần đây khi ngài đề cập vẻ đẹp, nhiệt tâm, đau khổ.
26:55 K: Yes, suffering and action, yes. K: Vâng, đau khổ và hành động, vâng.
26:58 A: And I remember asking you the question: in order to recover the correct relationship among them we must begin with the suffering which, if perceived as it ought to be perceived, generates passion. A: Và tôi nhớ hỏi ngài câu: để hồi phục quan hệ đúng đắn giữa chúng, chúng ta phải bắt đầu với đau khổ, nếu được nhận thấy, như nó phải được nhận thấy, sinh ra nhiệt tâm.
27:15 K: That's right.

A: One doesn't have to work it out. It happens. And behold, upon the same instant beauty breaks out, and love. So the passion in itself is compassion. The 'com' comes in exactly with the passion.

K: With passion, that's right.

A: Yes.
K: Đúng vậy.

A: Bạn không cần tác động. Nó xảy ra. Và nhìn, trong cùng khoảnh khắc vẻ đẹp bùng vỡ, và yêu thương. Vậy nhiệt tâm trong chính nó là lòng thương. 'Cùng nhau' vào chính xác với nhiệt tâm.

K: Với nhiệt tâm, đúng.

A: Vâng.
27:40 K: Now, sir, if you could, as a professor, or as a teacher, or as a parent, point this out, the impracticality of the way we are living, the destructiveness of it, the utter indifference to the earth. We are destroying everything we touch. And to point out a way of living in which there is no conflict. That, seems to me, is the function of the highest form of education. K: Giờ, nếu bạn có thể, như giáo sư, hay như thầy giáo, hay như cha mẹ, chỉ nó ra, tính không thực tế của lối chúng ta sống, sự phá huỷ của nó, hoàn toàn thờ ơ với trái đất. Chúng ta phá huỷ mọi thứ mình chạm vào. Và chỉ ra lối sống không có xung đột. Đó, dường như, là chức năng của hình thức cao nhất của giáo dục.
28:24 A: Yes, it has a requirement in it, though, that seems to me very clear, namely, the teacher himself must be without conflict. This is a very, very different point of departure from what occurs in our general educational structure, particularly in professional educational activities, where one gets a degree in professional education rather than in an academic subject as such. We are taught, for instance... and I am speaking about this somewhat as an outsider, because I don't have a degree in education, but in an academic subject as such, but I have observed in what goes on with my colleagues in education, that tremendous emphasis is placed on techniques of teaching.

K: Of course, of course.
A: Vâng, có đòi hỏi trong nó, dù là, có lẽ rất rõ, tức là, chính thầy giáo phải không xung đột. Đây là điểm khởi hành rất khác với điều xảy ra trong cơ cấu giáo dục chung, đặc biệt trong hoạt động giáo dục chuyên nghiệp, nơi bạn đạt trình độ trong giáo dục chuyên nghiệp hơn là trong các môn học như thế. Chúng ta được dạy, ví dụ... và tôi nói về nó có phần như người ngoài, bởi không có trình độ trong giáo dục, nhưng trong môn học vậy thôi, nhưng tôi quan sát việc xảy ra với đồng nghiệp trong giáo dục, nhấn mạnh khác thường được đặt vào kỹ thuật dạy.

K: Dĩ nhiên, dĩ nhiên.
29:20 A: And the question of the individual teacher as having undergone a transformation of the sort that you have been discussing is not a factor of radical concern. What is, of course, in an altruistic sense a matter of concern is that the teacher have the interests of the students at heart, and that sort of thing, which, of course, is laudable in itself, but it's after the fact, it's after the fact of this first transformation. A: Và vấn đề về cá nhân thầy giáo trải qua chuyển hoá về loại mà ngài thảo luận không phải là tác nhân quan tâm triệt để. Dĩ nhiên, trong cảm giác vị tha vấn đề quan tâm là thầy giáo có thích thú học sinh ở tâm hồn, và việc loại ấy, dĩ nhiên, đáng ca ngợi trong chính nó, nhưng nó tìm thực tế, nó tìm thực tế về sự chuyển hoá đầu tiên này.
29:54 K: Yes, sir, but you see, first I must transform myself, so I can teach.

A: Precisely, precisely.
K: Vâng, nhưng bạn xem, trước hết tôi phải chuyển hoá tôi, vậy tôi có thể dạy.

A: Đúng, chính xác.
30:04 K: Wait, see that there is a little bit... something in it that is not quite accurate. That means I have to wait till I change. Why can't I change, if I am an educator, in the very act of teaching? The boys, the students, live in conflict. The educator lives in conflict. Now, if I was an educator with a lot of students, I would begin with that and say, 'I am in conflict, and you are in conflict, let us see in discussing, in becoming aware of our relationship, in teaching, if it is not possible for me and for you to dissolve this conflict'. Then it has action. But if I have to wait till I'm free of all conflict, I can wait till doomsday. K: Đợi đã, nhìn xem có chút... gì trong đó không đúng lắm. Tức tôi phải đợi đến khi tôi thay đổi. Tại sao tôi không thể thay đổi, nếu là người dạy, trong chính hành động dạy? Trẻ, học sinh, sống trong xung đột. Người dạy sống trong xung đột. Giờ, nếu tôi là người dạy với nhiều học sinh, tôi bắt đầu với đó và nói, 'tôi trong xung đột, và bạn trong xung đột, hãy nhìn khi thảo luận, ý thức về quan hệ, trong dạy, nếu nó không thể cho tôi và bạn giải quyết xung đột này'. Rồi nó có hành động. Nhưng nếu tôi phải đợi đến thoát mọi xung đột, tôi có thể đợi đến ngày tận thế.
31:10 A: I see now exactly what you are saying. What you are saying is literally this: the teacher, who is presently in conflict, simply just acknowledges this. Walks into the classroom...

K: That's right, sir.
A: Giờ tôi hiểu chính xác điều ngài nói. Điều ngài nói đúng là vầy: thầy giáo, kẻ đang trong xung đột, đơn giản chỉ thừa nhận nó. Bước vào lớp...

K: Đúng vậy.
31:27 A: ...not as somebody who is free from conflict. A: ...không như kẻ lìa xung đột.
31:31 K: That's right.

A: No, but he walks into the classroom - and here it is, we are facing it. And he looks at his students and he lays it out.
K: Đúng vậy.

A: Không, nhưng hắn bước vào lớp - và đây, chúng ta giáp mặt nó. Và hắn nhìn học sinh và hắn bày nó ra.
31:41 K: That's the first thing I would discuss, not the technical subjects. Because that's living. And then I discuss. And also, in the very teaching of a technical subject I would say, all right, let us see how we approach, you know? I can learn from that, so that both the student and the educator know their conflicts and are interested in dissolving the conflict, and therefore they are tremendously concerned. That produces an extraordinary relationship. Because I have watched it. I go to several schools in India and in England, and it takes place. K: Đó là việc đầu tiên tôi bàn luận, không phải môn học kỹ thuật. Bởi đó là sống. Và rồi tôi thảo luận. Và cũng, chính trong dạy môn kỹ thuật tôi nói, tốt, hãy xem làm sao chúng ta đến đó, hiểu không? Tôi có thể học từ đó, vậy cả học sinh và người dạy biết xung đột của họ và thích thú giải quyết xung đột, và vì vậy họ vô cùng quan tâm. Đó tạo ra quan hệ lạ lùng. Bởi tôi đã nhìn nó. Tôi đến vài trường ở Ấn và ở Anh, và nó xảy ra.
32:31 A: In this taking place love breaks out. A: Trong xảy ra ấy yêu thương bùng vỡ.
32:36 K: Of course, of course. That is the very essence of it. Because I care, I feel responsible. K: Dĩ nhiên, dĩ nhiên. Đó là chính nền tảng nó. Bởi tôi quan tâm, tôi thấy trách nhiệm.
32:46 A: May I go into this just a little bit? One of the things that has concerned me in this series of our dialogues is that someone should have perhaps not seen as clearly as I think you have pointed out for me, that in our discussions of thought and of knowledge what we have been saying is that there is some dysfunction in thought and in knowledge, which relates to its own nature, the nature of thought, and the nature of knowledge, which could very well give the impression that thought is a disease or that knowledge is a disease, rather than giving the impression - as I have understood from you - that thought and knowledge have their proper uses. A: Tôi có thể đi sâu nó chỉ một chút? Một việc liên quan tôi trong loạt đối thoại này là ai đó có thể không thấy rõ ràng như tôi nghĩ ngài đã chỉ ra cho tôi, trong buổi thảo luận về suy nghĩ và kiến thức, cái chúng ta nói là có vài bất thường trong suy nghĩ và kiến thức, liên quan bản chất riêng của nó, bản chất của suy nghĩ, và bản chất của kiến thức, có thể cho ấn tượng rất rõ rằng suy nghĩ là bịnh hay kiến thức là bịnh, hơn là cho ấn tượng - như tôi hiểu từ ngài - rằng suy nghĩ và kiến thức có cách dùng thích hợp.
33:48 K: Of course. K: Dĩ nhiên.
33:49 A: Their natures are not corrupt as such. A: Bản chất chúng không hư hỏng như thế.
33:52 K: Obviously not.

A: Exactly.
K: Dĩ nhiên không.

A: Đúng.
33:53 K: It is the usage of it. Quite.

A: Right. Therefore it becomes of utmost importance, I think, in understanding what you are saying, to be aware of the corrective that we bring to bear, when together we examine the uses of thought and the uses of knowledge. While at the same time, not assuming that the principle of thought, the principle of knowledge is in its own nature corrupt.
K: Là cách dùng nó. Đúng.

A: Đúng. Vì vậy vô cùng quan trọng, tôi nghĩ, khi hiểu lời ngài nói, ý thức sự đúng đắn chúng ta đem đến, khi cùng nhau xem xét dùng suy nghĩ và dùng kiến thức. Trong khi đồng thời, không cho rằng nguồn gốc suy nghĩ, nguồn gốc kiến thức trong bản chất là hư hỏng.
34:22 K: No. Quite right.

A: So that in a classroom we could study a text, in which an assertion is made, a positive statement is made, without thinking that name and form are in themselves...
K: Không. Rất đúng.

A: Vậy trong lớp chúng ta có thể nghiên cứu bản văn, tuyên bố được làm, lời nói khẳng định được làm, không suy nghĩ tên và hình thức trong chúng...
34:38 K: Corrupt.

A: ...corrupt.
K: Hỏng.

A: ...hỏng.
34:39 K: Obviously not. A microphone is a microphone. There is nothing corrupt about it. K: Dĩ nhiên không. Chiếc mi-crô là mi-crô. Không có gì hỏng về nó.
34:45 A: Exactly, but, you know, the thing comes home to me with tremendous force, that one must begin in his relationship to his students with doing this. I must tell a little story on myself here. Years ago I went to hear a lecture of yours and I listened, I thought, very, very carefully. And, of course, one lecture is not in itself, perhaps at least for someone like me, it was not enough. Or another way to put it, perhaps more honestly would be, I was not enough at the time for the lecture, because it seems, as I recall it now, that the principles that we have been discussing you stated very, very clearly. I went away from that lecture with the impression that there was a very close relationship between what you are saying and Buddhism, and I was thinking about this whole label thing as scholars are wont to do - you know how we divide the world up into species. And in our series of conversations now I've come to see that I was profoundly mistaken. Profoundly mistaken. And I pinch myself to think, you know, I might have gone on thinking what I thought before, which had nothing to do with anything that you were concerned in. It is a revelation to face it that one doesn't have to have a credential to start with, before he walks into the room. He just has to start looking at the very thing that he believes is going to bring him into a hostile relationship with his class in order... because we believe that there are things that we must avoid talking about, because they create dissension, disruption and put us off. And therefore let's not talk about conflict. Or if we are going to talk about it, let's talk about it in terms of our being the ones who have the light over against these others who don't, and we have to take the good news to them. A: Đúng, nhưng, ngài biết, sự việc về nhà với tôi với sức mạnh lớn, bạn phải bắt đầu trong quan hệ hắn với học sinh là làm việc này. Tôi phải kể câu chuyện nhỏ về tôi ở đây. Hàng năm trước tôi đi nghe ngài diễn thuyết và tôi nghe, tôi nghĩ, rất cẩn thận. Và, dĩ nhiên, một buổi diễn thuyết không phải trong nó, có lẽ ít nhất cho ai đó như tôi, nó không đủ. Hay nói cách khác, có lẽ chân thành hơn, tôi không đủ cho diễn thuyết lúc ấy, bởi hình như, khi tôi nhớ lại, nguyên lý chúng ta thảo luận ngài nói rất, rất rõ ràng. Tôi rời buổi diễn thuyết với ấn tượng có quan hệ mật thiết giữa lời ngài nói và Phật giáo, và tôi suy nghĩ về toàn bộ nhãn hiệu như các học giả quen làm - ngài biết làm sao chúng ta chia thế giới thành loài. Và trong loạt nói chuyện này tôi hiểu rằng tôi quá sai lầm. Sai lầm trầm trọng. Và tôi tự véo mình để nghĩ, ngài biết, có lẽ tôi tiếp tục nghĩ điều đã nghĩ trước đó, nó chẳng liên quan gì điều ngài quan tâm. Là sự tiết lộ để giáp mặt nó mà bạn không cần có thành tích để bắt đầu, trước khi hắn bước vào phòng. Hắn chỉ phải bắt đầu nhìn vào chính vật hắn tin sẽ đưa hắn vào quan hệ thù địch với lớp học để... bởi chúng ta tin có việc chúng ta phải tránh nói đến, bởi họ tạo bất đồng, gây rối và lãng tránh chúng ta. Và vì vậy đừng nói về xung đột. Hay nếu chúng ta nói về nó, hãy nói về nó về mặt là người có ánh sáng đối lại với người không có, và chúng ta phải đem tin tốt đến cho họ.
37:22 K: It's like a guru. K: Giống như đạo sư.
37:24 A: Right, but simply to come into the room and say, let's have a look without any presuppositions, without my thinking that I have this in hand and you don't, or you have it and I don't. We're going to just hold it together. A: Đúng, nhưng đơn giản bước vào phòng và nói, hãy nhìn không có giả định trước, không nghĩ rằng tôi có này trong tay và bạn thì không, hay bạn có và tôi không. Chúng ta sẽ chỉ cùng nắm nó.
37:42 K: Right, sir. Share together. K: Đúng. Cùng chia sẻ.
37:44 A: Share it together, and behold... Am I following you?

K: Perfectly.
A: Cùng chia sẻ, và nhìn... Tôi theo kịp ngài chứ?

K: Hoàn toàn.
37:50 A: Oh, that's wonderful. I'm going to do this, after our conversation comes to an end, I will walk into that room. Do go on. A: Ồ, tuyệt vời. Tôi sẽ làm thế, sau buổi nói chuyện kết thúc, tôi sẽ bước vào phòng. Mời tiếp tục.
38:12 K: So sir, the energy that is created through conflict is destructive. The energy that is created through conflict, struggle, battle produces violence, hysteria, neurotic actions, and so on. Whereas the action of perception is total, non-fragmentary, and therefore it is healthy, sane and brings about such intense care and responsibility. Now, that is the way to live: seeing-acting, seeing-acting all the time. I cannot see, if there is an observer different from the observed. The observer is the observed. K: Vậy, năng lực được tạo ra qua xung đột là phá hoại. Và năng lực được tạo ra qua xung đột, tranh giành, đấu đá tạo ra bạo lực, hiếu chiến, hành động điên rồ, v.v.. Trong khi hành động của nhận thấy là hoàn toàn, không vỡ vụn, và vì vậy an lành, tỉnh táo và sinh ra quan tâm và trách nhiệm sâu sắc. Giờ, đây là lối sống: nhìn-hành động, nhìn-hành động mọi lúc. Tôi không thể nhìn, nếu có người quan sát khác vật quan sát. Người quan sát là vật quan sát.
39:17 A: This does a very marvellous thing to what we call our confrontation with death.

K: We'll come to that, yes.
A: Việc này làm điều rất tuyệt đến cái chúng ta gọi giáp mặt cái chết.

K: Chúng ta sẽ đến đó, vâng.
39:25 A: Yes, I see I have made a... A: Vâng, tôi thấy tôi đã tạo...
39:27 K: ...jump. No, no, sir, that's right. So you see, our whole content of consciousness is the battle, is the battleground, and this battle we call living. And in that battle, how can love exist? If I am hitting you, if I am competing with you, if I am trying to go beyond you, successful, ruthless, where does the flame of love, or compassion, tenderness, gentleness come into all that? It doesn't. And that's why our society as it is now has no sense of moral responsibility with regard to action or with regard to love. It doesn't exist. K: ...bước nhảy. Không, không, đúng vậy. Vậy bạn xem, cả tích chứa nhận thức là đấu tranh, là chiến trường, và đấu tranh ấy chúng ta gọi là sống. Và trong đấu tranh ấy, yêu thương làm sao có thể có? Nếu tôi đánh bạn, nếu tôi cạnh tranh với bạn, nếu tôi cố vượt bạn, thành công, nhẫn tâm, nơi nào lửa yêu thương, hay lòng thương, nhân hậu, dịu dàng bước vào mọi cái đó? Không. Và đó là lý do xã hội như hiện giờ không có cảm giác trách nhiệm đạo đức liên quan hành động hay liên quan yêu thương. Không có.
40:35 A: I'm going back into the context of my own experience, in the classroom again. It has always seemed to me that the first stanza of the Gita, the first stanza, the first chapter of the Gita, which begins: dharmaksettre Kuruksettre - in the field of Dharma, in the Kuru field - that 'in the Kuru field' is a statement in apposition and that the field is one. I have walked into class when we started to do the Gita, and I've tried to show both linguistically, as it seemed to me was capable from the text, and in terms of the spirit of the whole, that this was really what was being said, that it's one field, it's not two fields, though we have one army over here, and the other over here, but they don't occupy two fields. Somehow it is one field.

K: It is our earth.
A: Tôi trở lại bối cảnh kinh nghiệm riêng cũng ở lớp. Hình như luôn là đoạn thơ đầu của Gita, đoạn thơ đầu, chương thứ nhất của Gita, bắt đầu: dharmaksettre Kuruksettre - trong lĩnh vực Dharma, trong lĩnh vực Kuru - 'trong lĩnh vực Kuru' là câu nói trong phần ghép và rằng lĩnh vực là một. Tôi bước vào lớp khi bắt đầu với Gita, và tôi cố trình bày cả hai về ngôn ngữ, có vẻ như có thể từ bản văn và về tinh thần của toàn thể, rằng thực sự đây là cái đang được nói, là một lĩnh vực, không phải hai, dù có đội quân này ở đây, và đội quân khác ở đây, nhưng họ không bận rộn hai lĩnh vực. Cách nào đó là một lĩnh vực.

K: Là trái đất.
41:36 A: Right. It's the whole.

K: Yes, sir.
A: Đúng. Là toàn thể.

K: Vâng.
41:40 A: But, you see, I think I would have done better now that I've listened to you, if I had gone into class and instead of making that statement, and inviting them to look carefully at the text, and to bear that in mind as we proceed through the teaching, and watch for any misinterpretations of that that will have occurred in commentary after commentary, it would have been better if I had started the other way. It would have been better, if I had started by saying, let's have a look and see together whether it is one field or whether it's a field with conflict. We are not going to read the book at all at this point, we are just going to start here. This is the field. The classroom is the field. Now, let's take a look. That would have been the better way. A: Nhưng, ngài xem, tôi nghĩ chắc tôi làm tốt hơn giờ tôi nghe ngài, nếu tôi vào lớp và thay vì nói câu ấy, và mời chúng nhìn kỹ bản văn, và ghi nhớ khi chúng ta tiến hành giảng dạy và nhìn diễn dịch sai lầm về nó, nó xảy ra trong giải thích rồi giải thích, chắc là tốt hơn nếu tôi bắt đầu lối khác. Có lẽ tốt hơn, nếu tôi bắt đầu nói, hãy cùng nhìn xem phải chăng một lĩnh vực hay xem nó là lĩnh vực với xung đột. Chúng ta sẽ không đọc sách ở điểm này, chúng ta chỉ bắt đầu ở đây. Đây là lĩnh vực. Lớp học là lĩnh vực. Giờ hãy nhìn xem. Đó chắc là lối tốt hơn.
42:38 K: If you have understood that, sir, the classroom is the field, and if you understand that, you have understood the whole thing. K: Nếu bạn hiểu thế, lớp là lĩnh vực, và nếu bạn hiểu thế, bạn hiểu cả sự việc.
42:45 A: Exactly. But I went in with the notion that, though I had grasped that, so I thought it was enough simply to show that verbally. But it's patently not. And this is terrifying. Because even though if you say in the classroom what ostensibly passes for what we call the right thing, it still will not prevail in terms of this act that we've been talking about.

K: Act. Quite right. Can we go, sir, from there. We've discussed life, living, in which love does not exist at all. Love can only exist when the perceiver is the perceived and acts, as we said. Then that flame, that compassion, that sense of holding the earth in your arms as it were, if that is understood, and from that - behaviour, because that is the foundation; if there is no behaviour, in the sense of non-conflicting behaviour, then after establishing that in ourselves or in observing it, we can proceed next to the question of death. Because the question of death is an immense thing. To me living, love, and death are not separate. They are one movement. It isn't death over there, which I am going to meet in twenty years or the next day. It is there. It is there with love and with living. It is a continuous movement, non-divisive. This is the way I live, think, feel. That's my life. I mean this. These are not just words to me. So, before we enter into the question of death we have to go into the question of what is consciousness? Because if one doesn't understand what is consciousness, not the explanation, not the description, not the word, but the reality of consciousness. Am I, as a human, ever conscious? And what is to be conscious? What is it to be aware? Am I aware totally, or just occasionally I am aware when a crisis arises, otherwise I am dormant. So that's why it becomes very important to find out what is consciousness. Right, sir?

A: Yes. What you have just said seems to me to indicate that we are making a distinction between consciousness, which is a continuing movement, utterly situated in act as over against these blips, these eruptions virtually, within the sleepy course of nature.
A: Đúng. Nhưng tôi đi vào với lưu ý rằng, dù là hiểu nó, vậy tôi nghĩ đơn giản nó đủ bày ra bằng lời. Nhưng hiển nhiên không phải. Và nó khủng khiếp. Bởi ngay cả nếu ngài nói trong lớp cái có vẻ được xem là điều gọi là đúng, nó vẫn không thắng thế về mặt hành động chúng ta nói đến.

K: Hành động. Đúng vậy. Chúng ta có thể đi, từ đó. Chúng ta thảo luận sự sống, sống, trong đó yêu thương không có mặt. Yêu thương chỉ có thể có mặt khi người nhận thấy là vật nhận thấy và hành động, như chúng ta nói. Rồi ngọn lửa, lòng thương, cảm giác ôm cả trái đất trong tay như là vậy, nếu nó được hiểu, và từ đó - cư xử, bởi đó là nền tảng; nếu không có cư xử, trong nghĩa cư xử không xung đột, thì sau khi thiết lập nó trong chúng ta hay khi quan sát nó, chúng ta có thể tiếp tục vấn đề cái chết. Bởi vấn đề cái chết là việc lớn lao. Với tôi sống, yêu thương, và chết là không phân chia. Chúng là một chuyển động. Không phải chết ở đàng kia, tôi sẽ gặp nó hai mươi năm nữa hay hôm sau. Nó đó. Nó đó với yêu thương và sống. Nó là chuyển động liên tục, không phân chia. Đây là lối tôi sống, nghĩ, cảm nhận. Đó là đời tôi. Ý tôi vậy. Đó không chỉ là lời nói với tôi. Vậy, trước khi tìm hiểu vấn đề chết chúng ta phải tìm hiểu vấn đề nhận thức là gì? Bởi nếu bạn không hiểu nhận thức là gì, không phải giải thích, không phải mô tả, chữ, mà hiện thực của nhận thức. Như con người, tôi có nhận thức? Và nhận thức là gì? Biết là gì? Tôi biết hoàn toàn, hay chỉ đôi khi tôi biết khi khủng hoảng nổi lên, ngược lại tôi ngủ. Vậy đó là lý do rất quan trọng để tìm ra nhận thức là gì. Phải không?

A: Vâng. Điều ngài vừa nói hình như chỉ ra rằng chúng ta phân biệt giữa nhận thức, là chuyển động liên tục, hoàn toàn ở trong hành động đối lại đóm sáng này, phun trào ảo này, trong dòng chảy mê ngủ của tự nhiên.
47:11 K: That's right.

A: Yes. I see that. Yes, yes. Please go ahead.
K: Đúng vậy.

A: Vâng. Tôi thấy thế. Vâng, vâng. Mời tiếp tục.
47:15 K: So, what is consciousness? Consciousness is its content. - I am putting it very simply. I prefer to talk about these things very simply, not elaborate, linguistic descriptions and theories, and suppositions, and all the rest of it. That has no meaning to me personally. K: Vậy, nhận thức là gì? Nhận thức là tích chứa. - Tôi nói thật đơn giản. Tốt nhất nói mấy việc này thật đơn giản, không lý thuyết và mô tả và giả định, ngôn ngữ, phức tạp, và mọi thứ. Với cá nhân tôi nó vô nghĩa.
47:40 A: If it is true, it will be simple.

K: Simple.
A: Nếu nó thực, nó sẽ đơn giản.

K: Đơn giản.
47:43 A: Yes, of course. A: Vâng, dĩ nhiên.
47:46 K: Consciousness is its content. The content is consciousness. The two are not separate. That is, the thoughts, the anxieties, the identifications, the conflicts, the attachments, detachments, the fears, the pleasures, the agony, the suffering, the beliefs, the neurotic actions - all that is my consciousness. Because that is the content. K: Nhận thức là tích chứa. Tích chứa là nhận thức. Hai cái không tách nhau. Tức là, suy nghĩ, lo âu, đồng hoá, xung đột, bám víu, tách lìa, sợ, thú vui, thống khổ, đau đớn, niềm tin, hành động điên rồ - mọi cái đó là nhận thức. Bởi đó là tích chứa.
48:27 A: This is an equivalent statement to 'The world is me and I am the world'. So there's a continuity there.

K: Yes, that's right. So, the content which says: that is my furniture, that's my God, that's my belief, - with all its nuances and subtleties - is part of my consciousness, is part of the consciousness which says: I am. I am that, I am the furniture. When I identify myself saying: that's my furniture, I must keep it - you follow? - when I am attached to it, I am that. I am that knowledge, which says, I have acquired knowledge, I have grown in it, I have been successful in it, it has given me great comfort, it has given me a house, a position, power. That house is me. The battle which I have been through - suffering, agony - that's me, that's my consciousness. So consciousness is its content, therefore there is no division as consciousness separate from its content. I can extend or widen the consciousness, horizontally or vertically, but it is still within that field. I can extend it saying, God is immense. That's my belief. And I've extended my consciousness by imagining that it is extended. Whatever thought has created in the world and inside me is the content. The whole world, especially in the West, is based on thought. Its activities, its explorations, its achievements, its religions, and so on, is fundamentally the result of thought with its images, and so on, so on, so on. So that is the content of consciousness. Right?

A: Right.
A: Đây là câu nói tương đương với 'Thế giới là tôi và tôi là thế giới'. Vậy có sự liên tục ở đó.

K: Vâng, đúng vậy. Vậy, tích chứa nói: đó là nội thất của tôi, đó là Thượng đế của tôi, niềm tin của tôi, - với mọi sắc thái và tinh tế - là thành phần nhận thức, là thành phần nhận thức nói: tôi là. Tôi là nó, tôi là nội thất. Khi tôi tự đồng hóa nói: đó là nội thất tôi, tôi phải giữ nó - kịp không? - khi tôi bám nó, tôi là nó. Tôi là kiến thức kia, nói, tôi đạt kiến thức, tôi lớn lên trong nó, tôi thành công trong nó, nó cho tôi biết bao dễ chịu, nó cho tôi nhà, địa vị, quyền lực. Nhà đó là tôi. Cuộc chiến tôi trải qua - đau đớn, thống khổ - đó là tôi, đó là nhận thức tôi. Vậy nhận thức là tích chứa, vì vậy không có phân chia như nhận thức tách biệt với tích chứa. Tôi có thể kéo dài hay mở rộng nhận thức, ngang hay dọc, nhưng nó vẫn trong phạm vi ấy. Tôi có thể kéo dài nó và nói, Thượng đế vô biên. Đó là niềm tin tôi. Và tôi kéo dài nhận thức bởi tưởng rằng nó được kéo dài. Bất cứ gì suy nghĩ tạo ra trên thế giới và trong tôi là tích chứa. Cả thế giới, đặc biệt phương Tây, dựa trên suy nghĩ. Hoạt động, thám hiểm, thành tựu, tôn giáo, v.v.. cơ bản là kết quả của suy nghĩ với hình ảnh, v.v.., v.v.. Vậy đó là tích chứa của nhận thức. Đúng không?

A: Đúng.
51:16 K: Now, from that arises, what is death? Is death the ending of consciousness - with its content - or is death a continuity of that consciousness? Your consciousness is not different from mine. It may have little variations, little modifications, little more expansion, little contraction, and so on, but essentially consciousness is yours as well as mine, because I am attached to my house, so are you. I am attached to my knowledge, I am attached to my family, I am in despair whether I live in India, or in England, or in America, wherever it is. So that consciousness is common. It is irrefutable. You follow, sir?

A: Oh, yes. I do follow closely.
K: Giờ, từ đó khởi lên, chết là gì? Chết là chấm dứt nhận thức? - với tích chứa - hay chết là sự nối tiếp nhận thức ấy? Nhận thức của bạn không khác của tôi. Nó có thể có thay đổi chút ít, sửa đổi chút ít, mở rộng hơn chút, thu gọn chút, v.v.. nhưng cơ bản nhận thức của bạn cũng như của tôi, bởi tôi dính vào nhà tôi, bạn cũng vậy. Tôi bám vào kiến thức, tôi bám vào gia đình, tôi thất vọng dù tôi ở Ấn, hay ở Anh, hay ở Mỹ, bất kỳ đâu. Vậy nhận thức là chung. Không thể chối cãi. Kịp không?

A: Ồ vâng. Tôi theo kịp.
52:27 K: So, see what happens. I never have examined this content. I have never looked at it closely and I am frightened, frightened of something which I call death, the unknown. Let us call it for the moment the unknown. So, I'm frightened. There is no answer to it. Somebody comes along and says, yes, my friend, there is life after death. I have proof for it. I know it exists because I have met my brother, my son - we will go into that presently. So I, frightened, anxious, fearful, diseased - you follow? - I accept that tremendously, instantly say, yes, there is reincarnation. I am going to be born next life. And that life is related to karma. The word 'karma' means to act.

A: Yes.
K: Vậy, xem gì xảy ra. Tôi chưa hề xem xét tích chứa này. Tôi chưa hề nhìn gần nó và tôi sợ, sợ gì đó tôi gọi là chết, cái không biết. Hãy gọi là cái không biết lúc này. Vậy, tôi sợ. Không có lời đáp cho nó. Ai đó đi đến và nói, vâng, bạn, có đời sống sau khi chết. Tôi có chứng cớ. Tôi biết nó có bởi tôi gặp anh tôi, con trai tôi - chúng ta sẽ tìm hiểu ngay thôi. Vậy tôi, sợ, lo, sợ hãi, bịnh tật - kịp không? - tôi chấp nhận nó ghê gớm, liền nói, vâng, có tái sinh. Tôi sẽ được sinh ra đời sống kế. Và đời sống ấy liên quan đến nghiệp. Chữ 'nghiệp' nghĩa là hành động.

A: Vâng.
53:47 K: Not all the rigmarole involved in it, just to act. See what is involved. That is, if I believe in reincarnation, that is, this consciousness with its content, which is the 'me' - my ego, my self, my activities, my hopes, pleasures, all that is my consciousness - that consciousness is going to be born next life, which is the common consciousness of you and me, and him, and her. That's going to be born next life. And they say, if you behave properly now, you'll be rewarded next life. That's part of the causation. K: Không kể dông dài dính trong đó, chỉ hành động. Nhìn cái dính đó. Tức là, nếu tôi tin tái sinh, tức là, nhận thức ấy với tích chứa, là cái 'tôi' - bản ngã, ngã, hành động, hy vọng, thú vui, mọi cái đó là nhận thức - nhận thức ấy sẽ được sinh đời sống kế, là nhận thức chung của bạn và tôi, và anh ấy, và cô ta. Đó sẽ được sinh ra đời sống kế. Và họ nói, nếu giờ bạn cư xử tốt, đời kế bạn sẽ được thưởng. Đó là một phần của tạo nhân.
54:40 A: That's part of the content of consciousness. A: Đó là một phần của tích chứa nhận thức.
54:42 K: Causation and the effect.

A: Yes.
K: Nhân và quả.

A: Vâng.
54:46 K: So behave, because you are going to be punished next life. You will be rewarded next life. The whole of the Eastern world is based on it, believes in reincarnation. So what happens? I have taken comfort in a belief, but actually I don't carry it out: which says, behave now, be good now, don't hurt another now. K: Vậy cư xử, bởi bạn sẽ bị phạt đời kế. Bạn sẽ được thưởng đời kế. Cả thế giới phương Đông dựa trên đó, tin vào tái sinh. Vậy gì xảy ra? Tôi thấy dễ chịu trong niềm tin, nhưng thực tế tôi không thực hiện nó: nó nói, cư xử bây giờ, tốt bây giờ, đừng tổn thương kẻ khác bây giờ.
55:24 A: Actually the idea is that I should behave now, - we've been through this 'ought' stuff - I should this, I should that, I should the other because of what will take place later. But then I take comfort in the thought that it's an endless process, and it's somehow built into it that I'll get another chance. So I can sort of stall, I can stall. A: Thực tế ý niệm là tôi nên cư xử bây giờ, - chúng ta trải qua cái 'phải' này - tôi phải này, tôi phải kia, tôi phải nọ bởi việc sẽ xảy ra sau đó. Nhưng rồi tôi dễ chịu trong suy nghĩ nó là tiến trình bất tận, và cách nào đó được tạo trong nó rằng tôi sẽ có cơ hội khác. Vậy tôi có thể sắp xếp, có thể dừng lại.
55:50 K: I can stall. I can postpone, I can misbehave. K: Tôi có thể dừng lại. Có thể để đó, có thể cư xử tệ.
55:53 A: Yes. Because we are all destined to make it in the end. A: Vâng. Bởi chúng ta đều định sẵn làm vậy, cuối cùng.
55:57 K: Eventually. K: Dần dần.
55:59 A: Yes. Which shows that there's no grasp of what throughout these conversations you've been talking about, the immediacy and urgency of act.

K: Act. That's right.
A: Vâng. Nó chỉ ra rằng không nắm được điều ngài nói đến suốt các buổi nói chuyện, tức thì và khẩn thiết hành động.

K: Hành động. Đúng.
56:09 A: Yes, yes, I follow.

K: So, you see, the Hindus probably were the originators of this idea: cause, effect. The effect will be modified by next causation. So there is this endless chain. And they say, it's endless, we'll break it sometime. Therefore doesn't matter what you do now. Belief gives you great comfort in believing that you will continue, you will be with your brother, wife, husband, whatever it is. But in the meantime don't bother too seriously, don't take life too seriously.

A: Exactly, yes, yes.
A: Vâng, vâng, tôi theo kịp.

K: Vậy, bạn xem, Ấn giáo có thể khởi thuỷ của ý niệm này: nhân, quả. Quả sẽ bị biến đổi bởi nhân kế. Vậy có sợi xích bất tận. Và họ nói, nó bất tận, sẽ bẻ gãy nó lúc nào đó. Vì vậy giờ bạn làm gì cũng không vấn đề. Niềm tin cho bạn dễ chịu khi tin rằng bạn sẽ tiếp tục, sẽ ở với anh em, vợ, chồng, gì gì. Nhưng trong lúc ấy, đừng quá bận tâm, đừng xem cuộc đời nghiêm trọng quá.

A: Đúng, vâng.
57:01 K: Have a good time, in fact. Enjoy yourself. Or do whatever you want to do, pay a little next life, but carry on. K: Vui vẻ, thực tế đi. Thụ hưởng đi. Hay làm bất cứ gì bạn muốn, trả chút ít đời kế, nhưng tiếp tục.
57:09 A: I was speaking to a well-known Hindu teacher about this and I made this very remark that you have just stated, and I thought it would have some force. And I said, you see, there's no hope of stopping repeating, if an act is not made immediately with respect to this, therefore in terms of the content of the consciousness of a whole people that bask in this notion, there can be nothing but an endless repetition and no true concern. A: Tôi nói việc này với thầy Ấn giáo nổi danh và tôi rất chú ý ngài vừa nói, và tôi nghĩ nó có vài sức mạnh. Và tôi nói, ngài xem, không hy vọng gì dừng lặp lại, nếu không hành động ngay về việc này, vì vậy về tích chứa nhận thức của mọi người tắm mình trong khái niệm ấy, có thể không có gì ngoài lặp lại mãi và không thực quan tâm.
57:45 K: What did he say?

A: All he did was laugh, as though I had somehow perceived something which most people apparently are not really bothering their heads to look at. But the extraordinary thing to me was that he showed no concern for what he discerned intellectually.
K: Hắn nói gì?

A: Chỉ cười thôi, như thể tôi cách nào đó nhận thấy gì hầu hết mọi người có vẻ thực sự không bận tâm nhìn vào. Nhưng điều lạ lùng là hắn tỏ ra không quan tâm điều hắn thấy rõ về tri thức.
58:07 K: Sir, that's what they are, hypocrites - you follow, sir? They are hypocrites, when they believe that and do something quite contrary. K: Họ là vậy, đạo đức giả - kịp không? Họ đạo đức giả, khi họ tin nó và làm điều ngược lại.
58:16 A: Precisely, I understand what you mean. What you are saying, there is the usage of the Biblical notion of hypocrite in that strict sense. A: Đúng, tôi hiểu ý ngài. Điều ngài nói, có dùng khái niệm Kinh Thánh về đạo đức giả đúng nghĩa.
58:24 K: Sir, in the strict sense, of course.

A: Yes, in the very strict sense. In our next conversation could we continue with this, because...
K: Đúng nghĩa, dĩ nhiên.

A: Vâng, đúng nghĩa. Buổi nói chuyện kế chúng ta có thể tiếp việc này, bởi...
58:32 K: Oh, there is a great deal involved in this. K: Ồ, có rất nhiều việc gồm trong đó.
58:33 A: Splendid. I do look forward to that. A: Tuyệt. Tôi mong chờ nó.
58:36 K: Yes. We'll go into it. K: Vâng. Chúng ta sẽ tìm hiểu nó.